Việt Nam lọt TOP 10 quốc gia có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới (10-06-2024)

Trải qua 20 năm phát triển, nuôi cá nước lạnh tại Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, năm 2023 đạt sản lượng hơn 4.600 tấn, trong đó 4.303 tấn cá tầm. Việc phát triển nuôi cá tầm trong những năm qua đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Nga, Italia, Bungari, Iran, Mỹ, Pháp, Việt Nam, Ba Lan và Đức.
Việt Nam lọt TOP 10 quốc gia có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới

Ngày 7/6, tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội nghị tổng kết 20 năm phát triển cá nước lạnh và giải pháp phát triển nghề cá nước lạnh trong thời gian tới. Tham dự Hội nghị có 18/21 tỉnh trong cả nước tham gia nuôi cá nước lạnh, chủ yếu là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và 1 số tỉnh miền Trung.

Cá nước lạnh (cá tầm và cá hồi) là đối tượng thủy sản nuôi cá giá trị kinh tế cao, nhất là trứng cá Atamf muối (Caviar) được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Từ năm 2004 - 2005 cá hồi vân và cá tầm được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I nhập khẩu trứng cá đã thụ tinh về nuôi thử nghiệm ở huyện Sa Pa (Lào Cai). Đến năm 2006, cá tầm được đưa vào Tây Nguyên nuôi thử nghiệm tại tỉnh Lâm Đồng. Đến nay, cá nước lạnh (chủ yếu là cá tầm) đã được nuôi tại 21 tỉnh trong cả nước, chủ yếu ở khu vực phía Bắc và Tây Nguyên.

Ngoài tận dụng tốt diện tích mặt nước vốn không thích hợp để nuôi các đối tượng thủy sản nước ngọt truyền thống, việc phát triển nuôi cá nước lạnh ở các vùng cao còn góp phần tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên giới.

Theo Cục Thủy sản, sản lượng cá nước lạnh tại Việt Nam tăng nhanh trong thời gian qua. Sau 2 năm được nuôi thành công tại Việt Nam, đến năm 2007 sản lượng cá nước lạnh đạt 95 tấn. Đến năm 2010 đạt 450 tấn, năm 2015 là 1.585 tấn, năm 2020 đạt 3.720 tấn và đến năm 2023 đạt hơn 4.668 tấn, trong đó có 4.303 tấn cá tầm và 365 tấn cá hồi. Tăng trưởng sản xuất trong giai đoạn 2007-2023 tăng trung bình 49,13%/năm. Việc phát triển nuôi cá tầm trong những năm qua đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Nga, Italia, Bungari, Iran, Mỹ, Pháp, Việt Nam, Ba Lan và Đức. Lâm Đồng và Lào Cai là 2 địa phương phát triển sản xuất cá nước lạnh nhanh và lớn nhất, nơi tập trung nhiều cơ sở nuôi có quy mô lớn của cả nước.

Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Châu, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng cho biết, hoạt động phát triển cá nước lạnh tại Lâm Đồng được bắt đầu từ năm 2006. Hiện nay, sản lượng cá nước lạnh (cá tầm) tại Lâm Đồng đạt trên 2.300 tấn/năm, giá trị ước đạt 450 tỷ đồng góp phần đáng kể vào giá trị sản xuất ngành thủy sản, tăng thu nhập cho các tổ chức, cá nhân và phát triển kinh tế tại địa phương. Hàng năm sản xuất trên 5 triệu con cá tầm giống phục vụ cho nhu cầu sản xuất cá tầm tại địa phương trong tỉnh và xuất bán cho một số tỉnh trong cả nước. Việc tiêu thụ sản phẩm cá tầm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng tương đối thuận lợi, do đã hình thành liên kết chuỗi từ sản xuất giống, nuôi thương phẩm, cung ứng thức ăn và tổ chức thị trường tiêu thụ.

Mặc dù đạt được những tiến bộ lớn sau khi thử nghiệm và nuôi thành công cá nước lạnh tại Việt Nam nhưng đến tháng 5 năm 2024 mới có 9/31 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá tầm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện; có 32/845 cơ sở nuôi cá tầm thương phẩm được cấp mã số nuôi. Điều này dẫn đến khó khăn trong công tác kiểm soát chất lượng con giống là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng ảnh hưởng đến các khâu của chuỗi sản xuất như chất lượng, năng suất, sản lượng. Phần lớn các cơ sở phải nhập khẩu trứng cá thụ tinh về để ương thành cá giống, làm giá thành sản phẩm tăng cao, khó cạnh tranh với cá nhập khẩu,…

Cục trưởng Cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và và Phát triển nông thôn Trần Đình Luân đánh giá trong thời gian qua, năng suất và sản lượng ngành cá nước lạnh đã đạt được những kết quả khá tốt.  Vai trò của các Hiệp hội trong việc kết nối các địa phương và doanh nghiệp để cùng phát triển vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cần xiết chặt quản lý và rà soát địa điểm, hồ sơ nguồn gốc trang trại và nguồn cá giống để nâng cao chất lượng cho ngành. Từ cơ sở, từ trang trại, từ con giống bố mẹ đều phải có hồ sơ chứng minh.

Trong các giải pháp về phát triển cá nước lạnh trong thời gian tới, Cục trưởng Trần Đình Luân yêu cầu các địa phương tổ chức và xử lý nghiêm các trường hợp không chấp hành quy định về sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá nước lạnh; cần tổ chức các lớp tập huấn về quy trình phòng trừ dịch bệnh, kiểm dịch cho cá nước lạnh; chủ động chuyển giao công nghệ nuôi, sản xuất giống, các biện pháp phòng chống dịch bệnh, xử lý ô nhiễm cho các cơ sở nuôi và sản xuất giống; khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng và phát triển thương hiệu, nhãn mác, tạo vị thế của cá nước lạnh Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.

Về phía quản lý nhà nước, Cục Trưởng cho biết sẽ có trách nhiệm liên kết tìm nguồn bổ sung cá bố mẹ. Ngoài ra Cục trưởng cũng đề xuất nghiên cứu giải pháp dài hạn cho ngành nuôi cá nước lạnh, cần có địa chỉ tiêu thụ rõ ràng và đẩy mạnh quảng bá sản phẩm để tạo ra thương hiệu cho cá tầm Việt Nam. Muốn đi xa phải đi cùng nhau – các doanh nghiệp phải tạo được sự liên kết giữa phía quản lý và cơ sở sản xuất.

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác