Diễn biến chất lượng môi trường nước vùng nuôi tôm nước lợ, cá tra trong tháng 3 năm 2022 tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước (28-04-2022)

 Thực hiện Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2021-2025 phục vụ nuôi trồng thủy sản. Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với các Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III và chỉ đạo Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định Nuôi trồng Thuỷ sản tiến hành quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi trồng thuỷ sản với 172 điểm quan trắc trên tôm nước lợ, cá tra tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Từ đó đưa ra những khuyến cáo và có những giải pháp quản lý để tránh thiệt hại do thời tiết gây ra cho các đối tượng thủy sản.
Diễn biến chất lượng môi trường nước vùng nuôi tôm nước lợ, cá tra trong tháng 3 năm 2022 tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước
Ảnh minh họa

Cụ thể, đối với vùng nuôi tôm nước lợ khu vực phía Bắc: diễn biến môi trường tháng 03/2022 cho thấy các chỉ tiêu quan trắc gồm nhiệt độ, pH, DO, H2S, COD, N-NO2- nằm trong giới hạn cho phép (GHCP) cho nuôi tôm nước lợ. Không phát hiện tảo độc và mầm bệnh VANPND trong nước nguồn cấp tại các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, tại một số điểm quan trắc một số thông số môi trường có giá trị nằm ngoài khoảng giới hạn cho nuôi tôm nước lợ như: độ độ kiềm thấp tại Hiên Thành, Trung Hải- Quảng Trị, Kỳ Hà – Hà Tĩnh, độ kiềm cao tại Hải Chính - Nam Định. Coliform vượt từ 2,7 – 31 lần tại điểm nguồn cấp một số vùng nuôi Lăng Cô – Huế, Trung Hải và Hiền Thành – Quảng Trị, Xuân Phổ và Hộ Độ - Hà Tĩnh, Quỳnh Bảng và Quỳnh Liên – Nghệ An, Hải Chính và Quất Lâm – Nam Định. Ngoài ra, Vibrio tổng số vượt từ 1,2 – 1,3 lần tại điểm nguồn cấp Lăng Cô – Huế, N-NH4+  vượt 1,1 lần tại Hiền Thành – Quảng Trị, tổng chất rắn lơ lửng trong nước (TSS) vượt 1,1 lần tại Quất Lâm – Nam Định. 

Chỉ số WQI nguồn cấp tại Lăng Cô ở mức xấu trong tháng 03, các điểm Võ Ninh – Quảng Bình, Quỳnh Bảng và Quỳnh Liên – Nghệ An đạt mức rất tốt; các điểm Thuận An – Huế, Kỳ Hà – Hà Tĩnh đạt mức tốt đến rất tốt; các điểm Quảng Thuận – Quảng Bình, Hộ Độ - Hà Tĩnh, Hải Chính – Nam Định ở mức trung bình đến mức rất tốt.

Vùng nuôi tôm nước lợ khu vực Nam Trung Bộ: Các thông số gồm độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, P-PO43-, COD, Vibrio spp. và coliform nằm ngoài GHCP, tăng 3 thông số so với cùng kỳ năm 2021, đó là N-NH4+ COD và coliform. Các thông số khác như: nhiệt độ, pH, DO, N-NO2-, S2- (H2S), tổng chất rắn lơ lửng trong nước (TSS), V. parahaemolyticus đều nằm trong GHCP. 

Trong các thông số nằm ngoài GHCP thì độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, COD có 4/26 mẫu vượt GHCP, chiếm 15,4 %. P-PO43- có 3/26 tổng số mẫu vượt GHCP, chiếm 11,5%. Vibrio spp. có 6/26 mẫu vượt GHCP, chiếm 23,1%, tăng so với cùng kỳ năm 2021 (4/24 mẫu, chiếm 16,7%). Coliform có 8/26 mẫu vượt GHCP, chiếm 30,8%.

Chỉ số chất lượng môi trường nước cấp 02 đợt quan trắc (Đợt 5 và 6) đều ở mức tốt đến rất tốt (VN-WQI=77-97), ngoại trừ vùng nuôi Đông Điền, Vinh Quang, Bình Định và Tân Thủy, Khánh Hoà ở mức trung bình (VN-WQI=54-67) vào đầu tháng 3/2022. So với cùng kỳ năm 2021, chất lượng nước tháng 03/2022 có cải thiện hơn, ngoại trừ vùng nuôi Đông Điền, Vinh Quang, Bình Định và Tân Thủy, Khánh Hoà.

Vùng nuôi tôm nước lợ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Các thông số pH, nhiệt độ, độ mặn đều nằm trong khoảng giá trị cho phép. Lưu vực, bến phà Đại Ân 1, cầu Cà Lăm, Sóc Trăng, kênh 9000 (Bạc Liêu) có giá trị độ mặn thấp hơn 5‰. Hàm lượng DO thấp tập trung trong các thuỷ vực quan trắc thuộc Bạc Liêu. Một số chỉ tiêu vượt giới hạn cho phép gồm N-NO2- (dao động từ 0,002-0,557mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 51,1%), N-NH4+ (dao động từ 0,01-1,41mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 41,1%), P-PO43- (dao động từ 0,012-0,216mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 11,7%), Vibrio sp. tổng số (dao động từ 0-4500 CFU/mL, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 15,6%) tập trung chủ yếu ở các thủy vực được quan trắc ở Bạc Liêu và Cà Mau. Ngoài ra ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus chiếm 26% lượt quan trắc, mật độ từ 0-460 CFU/mL.

 Chỉ số chất lượng nước (WQI) trung bình trong các thủy vực dao động từ 5096, ở mức chất chất lượng nước trung bình chiếm 40%, tốt chiếm 42% và rất tốt chiếm 18%. Các thủy vực quan trắc có chất lượng nước đạt ở mức trung bình chủ yếu do các thông số ô nhiễm hữu cơ hoặc mật độ vibrio tổng tăng cao.

Vùng nuôi cá tra: Các thông số nhiệt độ, pH, DO đều nằm trong khoảng giá trị cho phép. Ghi nhận hàm lượng các chất ô nhiễm vượt GHCP ở 1 số thủy vực như Kênh Cái Sao-Bờ Hồ, Cầu kênh ông Cò trong lượt quan trắc nửa đầu tháng 2, nhưng trong lượt quan trắc liền kề hàm lượng các chất này đã giảm. Độ dẫn diện trong các thuỷ vực ít biến động, tuy nhiên cần lưu ý lưu vực Thạnh Phú Đông có độ dẫn điện cao (8-10‰) nguy cơ xâm nhậm mặn cao. Mật độ vi khuẩn Aeromonas tổng số ghi nhận được 17,6% số lượt quan trắc cao hơn 103CFU/mL. Ngoài ra ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn Edwardsiella ictaluri với tần suất là 9,5% và Aeromonas hydrophilla là 63,5%. 

  Hầu hết các điểm quan trắc có chỉ số chất lượng nước phân loại ở mức “rất tốt”, chiếm 50,0% và “tốt”  chiếm 37,8%. Ngoài ra, có 12,2% có chất lượng nước “trung bình” vì các chỉ số chỉ thị ô nhiễm hữu cơ đều cao hơn giới hạn cho phép.

Một số khuyến cáo đối với người nuôi

Sau khi có kết quả quan trắc, kết hợp với bản tin dự báo tình hình thời tiết của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia, Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với các Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III gửi thông báo kết quả quan trắc đến Chi cục Thuỷ sản/Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thuỷ sản, phòng nông nghiệp huyện, các doanh nghiệp và cơ sở nuôi trồng thuỷ sản bằng hình thức email, EMS, zalo… để triển khai ngay các biện pháp ổn định môi trường vùng nuôi; cập nhập số liệu quan trắc vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường.

Trong tháng 3/2022 và 3 tháng đầu năm 2022, trên cơ sở kết quả quan trắc Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với các đơn vị ban hành 03 Công văn cảnh báo diễn biến môi trường vùng nuôi 3 tháng đầu năm và dự báo cáo tháng tiếp theo tại khu vực Bắc, Trung, Nam,.. Kết quả quan trắc môi trường nêu trên cùng với kết quả quan trắc môi trường nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương, thông báo và có các giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững.

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác