Đánh giá thức ăn có thành phần tảo Nannochloropsis cho cá rô phi (19-09-2018)

Tăng trưởng nuôi trồng thủy sản đã dẫn đến nhu cầu thức ăn gia tăng mà theo truyền thống phụ thuộc rất lớn vào bột cá và dầu cá là nguồn cung cấp protein và lipid chính, nhưng những nguồn cung cấp này là hữu hạn. Trong một lưu ý tích cực, đã có một số lựa chọn thay thế protein trên thị trường, bao gồm cả sản phẩm phụ của động vật và protein thực vật.
Đánh giá thức ăn có thành phần tảo Nannochloropsis cho cá rô phi
Ảnh minh họa

Tuy nhiên, rất ít nguyên liệu chứa các axit béo không bão hòa chuỗi dài eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA). Nếu không có DHA và EPA trong thức ăn thủy sản, các sản phẩm cuối cùng cũng sẽ thiếu các axit béo omega 3 chuỗi dài này, một yếu tố dinh dưỡng quan trọng của cá và hải sản đối với con người.

Tảo nước ngọt như Chlorella và Spirulina dường như có tiềm năng tốt như nguồn protein, trong khi vi tảo biển như Nannochloropsis, Tetraselsmis hoặc heterotroph Schitzochytrium là những nguồn cơ bản của EPA và DHA. Do nguồn cung cấp dầu cá bị giới hạn, sinh khối tảo biển đang được coi là một trong những thành phần thay thế của tương lai.

Nghiên cứu này đã kiểm tra các tính chất hiệu quả và dinh dưỡng của tảo biển Nannochloropsis salina như một thành phần thức ăn với thử nghiệm trên cá rô phi (Oreochromis niloticus) như một loài mô hình. Nannochloropsis được chọn vì nó chứa cả protein có lợi (43%) và lipid (16,6%) với hàm lượng EPA cao (16% tổng lipid).

Thiết lập thử nghiệm

Cá rô phi đực vằn (GMT) nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Bền vững tại Đại học Swansea được sử dụng cho thử nghiệm. Thử nghiệm được thiết lập trong nhà như là một phần của hệ thống tuần hoàn nước ngọt, bao gồm các máy cơ học và lọc sinh học, một bộ lọc protein và một bộ lọc cát. Nhiệt độ nước được giữ ở 27 độ C và chu kỳ sáng được đặt ở 12 giờ ánh sáng hàng ngày. Nhiệt độ và mức độ hòa tan oxy được đo hàng ngày, trong khi tổng nitơ amoniac, nitrit, nitrat và pH được đo hàng tuần.

Tổng số 15 cá rô phi (12,8 gram/con) được thả vào trong 12 bể, với ba lần lặp lại đối với mỗi chế độ ăn. Chế độ ăn được thiết lập để chứa 35% protein và 13% lipid theo cách mà cả protein và lipid trong một chế độ ăn có nguồn gốc từ cùng một nguồn. Trong chế độ ăn đầu tiên, protein và lipid chỉ là từ bột cá và dầu cá; chế độ ăn thứ hai được dựa trên bột đậu tương và dầu đậu tương, và trong chế độ ăn thứ ba, nguồn protein và lipid hoàn toàn dựa trên muối tảo Nannochloropsis salina

Thức ăn được chuẩn bị bằng cách trộn các thành phần khô với chất kết dính và nước, nghiền qua máy xay thịt và sau đó sấy khô ở 45 độ C trong lò trong 24 giờ. Kết quả các viên thức ăn có đường kính 2,5 mm và không phân hủy tối đa 24 giờ trong nước.

Cuộc thử nghiệm kéo dài trong 36 ngày. Cá được cho ăn no theo cách thủ công lên đến bốn lần mỗi ngày, và bất kỳ viên thức ăn thừa nào đều được thu thập vào cuối ngày và kiểm đếm. Cá được lấy mẫu ban đầu và vào cuối giai đoạn thử nghiệm tăng trưởng để phân tích toàn bộ cơ thể. Ngoài ra, hàm lượng axit béo của thức ăn và cá được phân tích để xác định sự tích tụ trong toàn bộ cơ thể trong mối quan hệ với axit béo trong thức ăn.

Các kết quả

Các kết quả cho thấy hiệu suất tăng trưởng được cải thiện đối với cá cho ăn thức ăn dựa trên bột cá; Tuy nhiên, cá cho ăn chế độ ăn Nannochloropsis tăng trưởng tốt như thức ăn dựa trên đậu tương. Nannochloropsis đã được hấp thu tốt, qua tỷ lệ % hấp thu thức ăn.

Hơn nữa, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn của cá rô phi được cho ăn tảo được tăng cường so với cá rô phi cho ăn thức ăn đậu tương, cho thấy rằng lượng thức ăn cần cho ăn ít hơn, 1,28 kg thức ăn có thành phần tảo Nannochloropsis so với 1,43 kg thức ăn có thành phần bột đậu tương. Điều này có thể là do phần carbohydrate phức tạp và ăn được trong bột đậu tương, trong khi ngược lại, hiệu suất thức ăn cao cho cá ăn chế độ ăn có thành phần Nannochloropsis có thể cho thấy khả năng tiêu hóa cao.

Trong tất cả các chế độ ăn, thành phần axit béo của các cơ quan cá bị ảnh hưởng bởi thành phần axit béo của khẩu phần ăn. Hàm lượng axit linoleic (18: omega-6) của cá khi cho ăn chế độ ăn dầu đậu nành tăng đáng kể, trong khi mức EPA trong cơ thể cá được tăng cường khi cho ăn thức ăn có thành phần tảo Nannochloropsis, thậm chí vượt quá so với cá được cho ăn chế độ ăn bột cá.

Đánh giá

Nannochloropsis cho thấy tiềm năng đầy hứa hẹn như là một nguồn protein và lipid cho thức ăn thủy sản do hàm lượng protein và lipid có lợi của nó, cũng như nguồn cung dồi dào của nó. Khả năng tiêu hóa không được xác định ở tảo Nannochloropsis, nhưng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn FCR được cải thiện so với đậu tương cho thấy các vách tế bào tảo không hạn chế quá trình tiêu hóa. Điều này trái ngược với Chlorella, có thành tế bào rất cứng, như đã được chứng minh trước đây.

Ở khía cạnh khác, Nannochloropsis không chứa DHA; do đó, một chiến lược có thể là tạo loại thức ăn kết hợp với một nguồn giàu DHA như heterotroph Schitzochytrium.

Tuy nhiên, để chứng minh tiềm năng của các sản phẩm tảo, một số rào cản phải được khắc phục, đặc biệt là để chứng minh rằng sản xuất thức ăn từ tảo trên quy mô thương mại là khả thi và hiệu quả về chi phí.

HNN (Theo GAA)

Ý kiến bạn đọc

Tin khác