Số hóa Ngành Nông nghiệp và Môi trường - Những kết quả vượt bậc trong thực hiện Đề án 06 của Chính phủ (14-11-2025)

Năm 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đạt được nhiều kết quả vượt bậc trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia, một trụ cột quan trọng để xây dựng Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Mặc dù đối mặt với khối lượng công việc khổng lồ, đặc biệt trong các lĩnh vực phức tạp như đất đai và thủy sản, Bộ đã đạt được những thành tựu đáng kể, tạo ra nền móng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Số hóa Ngành Nông nghiệp và Môi trường - Những kết quả vượt bậc trong thực hiện Đề án 06 của Chính phủ
Ảnh minh họa

Tạo dựng nền tảng pháp lý vững chắc cho Chuyển đổi số

Chuyển đổi số (CĐS) không thể thành công nếu thiếu một hành lang pháp lý thông thoáng và đồng bộ. Trong giai đoạn 2022-2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thực hiện vai trò tham mưu và chỉ đạo quyết liệt, tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) và kế hoạch triển khai sâu rộng.

Bộ đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành 02 Nghị định (Nghị định số 101/2024/NĐ-CP và 102/2024/NĐ-CP) và 05 Thông tư (số 08, 09, 10, 11, 12/2024/TT-BTNMT) nhằm quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai 2024. Đây là bước đi then chốt nhằm số hóa và chuẩn hóa quy trình quản lý đất đai, lĩnh vực cốt lõi nhất của Đề án 06 trong phạm vi quản lý của Bộ. Bên cạnh đó, Bộ cũng đã trình Chính phủ ban hành 03 Nghị định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường (các Nghị định số 131/2025/NĐ-CP, 136/2025/NĐ-CP, số 151/2025/NĐ-CP), tạo điều kiện để các địa phương chủ động hơn trong việc áp dụng CĐS. Đặc biệt, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 5/8/2025 phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

Trong công tác chỉ đạo điều hành của Bộ, trước khi hợp nhất, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành 06 Quyết định về Kế hoạch chung và hàng năm triển khai Đề án 06/CP, cùng với 01 Chỉ thị tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án 06/CP (Chỉ thị số 9412/CT-BNN-KHCN).Đặc biệt, Đảng ủy Bộ đã ban hành Kế hoạch thúc đẩy chuyển đổi số liên thông, đồng bộ (Kế hoạch số 13-KH/ĐU) và Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngành Nông nghiệp và Môi trường (Nghị quyết số 14-NQ/ĐU). Điều này khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc định hướng CĐS.

Bộ cũng đã ban hành 10 Kế hoạch khác nhau, bao trùm từ việc xây dựng văn bản QPPL cho mô hình chính quyền 02 cấp, đến việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số số 193/2025/QH15 của Quốc hội, cùng với Kế hoạch xây dựng các CSDL quốc gia, chuyên ngành. Sự phối hợp với Bộ Công an cũng được thể hiện rõ qua việc ban hành 02 Kế hoạch phối hợp, bao gồm Kế hoạch triển khai nhiệm vụ Đề án 06/CP (Kế hoạch số 395/KHPH-BCA-BNN&MT) và Kế hoạch thực hiện chiến dịch làm giàu, làm sạch cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai (Kế hoạch số 515/ KH-BCA-BNN&MT).

Thành tựu trong Cải cách hành chính và Dịch vụ công trực tuyến

Nhờ những nỗ lực trên, đã có nhiều cải cách rõ rệt trong việc cắt giảm thủ tục hành chính (TTHC) và nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT), mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân và doanh nghiệp. Thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP, Bộ đã rà soát tổng số 650 TTHC thuộc phạm vi quản lý, trong đó có 518 TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đã cắt giảm, đơn giản hóa 468/518 TTHC, đạt tỷ lệ 90,34%; Cắt giảm 5.735/16.667 ngày giải quyết TTHC, đạt tỷ lệ 34,41%; Chi phí tuân thủ TTHC được cắt giảm 5.086/9.702 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 52,42%. Bộ cũng đã đề xuất thay thế thành phần hồ sơ giấy bằng việc khai thác dữ liệu đối với 26 TTHC, và đề xuất bổ sung thêm 09 TTHC khác vào lộ trình này.

Bộ đã hoàn thành cung cấp 04/05 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án 06/CP và Quyết định số 422/QĐ-TTg, tập trung vào nhóm thủ tục “Đăng ký biến động đối với quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất”. Bộ đã hợp nhất Hệ thống thông tin giải quyết TTHC và kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia (như đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm, dân cư) và các nền tảng số khác như Cổng Dịch vụ công quốc gia, VNeID. Bộ đã cung cấp 224 TTHC trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của Bộ, tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia, bao gồm 76 DVCTT toàn trình và 148 DVCTT một phần. Tỷ lệ cung cấp DVCTT toàn trình trên tổng số TTHC đủ điều kiện đạt 85,39%; Tỷ lệ thanh toán trực tuyến đạt 94,57%. Tỷ lệ kết quả xử lý hồ sơ TTHC được đồng bộ đầy đủ trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 100%. Tuy nhiên, tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC  mới chỉ đạt 4,79% và tỷ lệ hồ sơ trực tuyến trên tổng số hồ sơ tiếp nhận, giải quyết TTHC mới đạt 8,7%, cho thấy mặc dù hạ tầng và dịch vụ đã sẵn sàng, nhưng thói quen sử dụng trực tuyến của người dân và doanh nghiệp vẫn cần thời gian để thay đổi.

Cơ sở dữ liệu (CSDL) Đất đai và Cơ sở dữ liệu định danh tàu thuyền - Trọng tâm của Dữ liệu ngành Nông nghiệp và Môi trường

Đề án 06/CP coi dữ liệu là tài nguyên quan trọng nhất. Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý 02 lĩnh vực dữ liệu cực kỳ phức tạp và quy mô lớn là Đất đai và Thủy sản.

Đối với CSDL Đất đai, Bộ đã hoàn thành xây dựng 04 dữ liệu thành phần do Trung ương xây dựng, bao gồm: Dữ liệu hiện trạng sử dụng đất cấp vùng/cả nước; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia; Khung giá đất (dù Luật Đất đai 2024 đã bỏ quy định về khung giá đất) và Dữ liệu điều tra cơ bản về đất đai cấp vùng/cả nước. Ở cấp địa phương, 34/34 tỉnh, thành phố đang xây dựng, hoàn thiện CSDL đất đai. Khoảng 2.360/3.321 đơn vị cấp xã đã hoàn thành CSDL địa chính với hơn 49,7 triệu thửa đất được đưa vào vận hành. Bộ đã thực hiện đồng bộ CSDL đất đai của 34/34 tỉnh mới (tương đương 61/63 tỉnh cũ) về CSDLQG về đất đai, bao gồm dữ liệu địa chính của 7.264/10.041 xã (theo địa giới cũ). Chiến dịch 90 ngày đêm làm giàu, làm sạch dữ liệu đất đai (theo Kế hoạch số 515/KH-BCA-BNNMT) đã đạt những kết quả bước đầu. 34/34 địa phương đối soát 55,1 triệu dữ liệu đất ở, nhà ở với CSDL dân cư.

Trong lĩnh vực Thủy sản, việc định danh tàu thuyền trên nền tảng CSDLQG về Dân cư là nhiệm vụ trọng tâm. Bộ đã hoàn thành đối soát dữ liệu với trên 80 nghìn tàu cá. Trong đó, 69.532 tàu cá có thông tin số định danh (CCCD) trùng với số định danh trong CSDLQG về Dân cư. Tỷ lệ cập nhật số CCCD/CMND trên phần mềm VNfishbase tính đến ngày 11/8/2025 đạt 95,3% (76.807/81.656 tàu cá). Việc triển khai này không chỉ phục vụ quản lý hành chính mà còn đóng góp trực tiếp vào việc phòng, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp (IUU).

Khó khăn còn tồn tại

Vấn đề cốt lõi nhất vẫn là những vướng mắc về dữ liệu đất đai. Đây là dữ liệu lớn, phức tạp, biến động liên tục. Đặc biệt, nhiều địa phương không gắn CSDL với hoạt động quản lý TTHC, dẫn đến việc dữ liệu không được cập nhật đầy đủ. Việc tổng rà soát, xác minh, bổ sung thông tin nhà ở, địa chỉ số để “làm giàu, làm sạch” CSDL đất đai là khối lượng công việc lớn, cần nguồn kinh phí và sự phối hợp đồng bộ.

Về hạ tầng, một số Sở Nông nghiệp và Môi trường ở địa phương còn hạn chế về điều kiện hạ tầng công nghệ thông tin (thiếu máy chủ), việc bố trí kinh phí đầu tư, nâng cấp thiết bị, hạ tầng bảo đảm an ninh, an toàn còn gặp nhiều khó khăn, trình tự thủ tục đầu tư, mua sắm trang thiết bị khó đáp ứng tiến độ yêu cầu. Hơn nữa, các dịch vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu và dịch vụ xác thực/định danh điện tử (như kết nối với CSDLQG về Dân cư) hiện tại đôi lúc hoạt động chưa ổn định, tốc độ xử lý chậm, còn bị lỗi.

Việc triển khai đăng ký tàu cá, nhật ký khai thác thủy sản để khai báo lưu trú cho các thuyền viên, chủ tàu thuyền trên tàu cá gặp nhiều khó khăn do địa bàn rộng, thiếu các giải pháp công nghệ kết nối.

Định hướng chiến lược giai đoạn 2026 - 2030

Để giải quyết các tồn tại và thúc đẩy CĐS, Bộ cần tiếp tục hoàn thiện khung quản trị, quản lý dữ liệu các lĩnh vực, làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện, kết nối, chia sẻ các CSDL quốc gia, chuyên ngành và sử dụng CSDLQG về Dân cư phục vụ TTHC trên môi trường điện tử.

Tiếp tục đầu tư xây dựng, hoàn thiện và đưa vào khai thác hiệu quả các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành nông nghiệp và môi trường để tạo nền tảng dữ liệu phục vụ chỉ đạo, quản lý và cung cấp dịch vụ công, theo phương châm “đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung”, CSDL sẽ được thu thập chính xác ngay tại nguồn và xử lý theo quy trình; triển khai việc mở dữ liệu để người dân, doanh nghiệp khai thác, tạo giá trị mới. Đồng thời, dữ liệu sẽ được kết nối, đồng bộ về Trung tâm dữ liệu quốc gia, chia sẻ với các cơ quan Bộ, ngành, địa phương phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và giải quyết TTHC, triển khai các sáng kiến mở dữ liệu.

Hoàn thành, đưa vào vận hành Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của Bộ, đẩy mạnh số hóa, nâng cao chất lượng, đẩy mạnh loại hình cung cấp DVCTT toàn trình, cấp giấy phép tự động và cung cấp dịch vụ số mới được cá nhân hóa, dựa trên dữ liệu.

Bộ sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng, triển khai hạ tầng số hợp nhất, tập trung hóa, vận hành, nâng cấp các Trung tâm dữ liệu ngành bằng công nghệ hiện đại. Xây dựng Trung tâm giám sát điều hành thông minh (SOC) nhằm tăng cường quản lý công và hiệu quả điều hành dựa trên dữ liệu. Bộ đã đầu tư các giải pháp An toàn thông tin theo mô hình 4 lớp, với hệ thống tường lửa 7 lớp tích hợp công nghệ học máy để phòng chống tấn công. Tiếp tục phối hợp với Bộ Công an triển khai các nhiệm vụ về định danh địa điểm, xây dựng địa chỉ số quốc gia; định danh tàu thuyền trên nền tảng CSDLQG về Dân cư, định danh và xác thực điện tử.

Hương Trà

Ý kiến bạn đọc

Tin khác