Quy chế bảo đảm an toàn thông tin mạng và an ninh mạng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ NNMT) được xây dựng dựa trên một nền tảng pháp lý vững chắc, bao gồm Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, cùng nhiều nghị định và thông tư liên quan. Những văn bản này không chỉ định hình khung pháp lý mà còn khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin trong các hoạt động quản lý nhà nước. Đặc biệt, Nghị định số 85/2016/NĐ-CP và Thông tư số 12/2022/TT-BTTTT được nhấn mạnh như các cơ sở quan trọng để phân cấp và quản lý an toàn hệ thống thông tin, đảm bảo tính nguyên vẹn, bảo mật và khả dụng của dữ liệu.
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, Bộ NNMT phải đối mặt với những thách thức lớn về an ninh mạng. Các cuộc tấn công mạng, từ mã độc đến truy cập trái phép, đang trở thành mối đe dọa thường trực. Quy chế này ra đời như một công cụ để thống nhất các biện pháp bảo vệ, từ quản lý hạ tầng kỹ thuật đến giám sát và ứng phó sự cố, nhằm bảo vệ thông tin nhạy cảm, dữ liệu cá nhân và các hệ thống thông tin quan trọng. Đây không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà còn là trách nhiệm chính trị, gắn liền với an ninh quốc gia và lợi ích của các tổ chức, cá nhân.
Phân định trách nhiệm và quản lý hệ thống thông tin
Quy chế xác định rõ vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan trong việc bảo đảm an toàn thông tin mạng. Bộ NNMT được xác định là chủ quản đối với các hệ thống thông tin do Bộ đầu tư hoặc được giao quản lý. Cục Chuyển đổi số giữ vai trò trung tâm, chịu trách nhiệm vận hành các hệ thống thông tin dùng chung, cơ sở dữ liệu của Bộ, đồng thời là đơn vị chuyên trách về an toàn thông tin. Các đơn vị trực thuộc Bộ cũng được phân công quản lý các hệ thống thông tin do mình phê duyệt hoặc vận hành, đảm bảo tính liên kết và thống nhất trong toàn hệ thống.
Việc phân cấp an toàn hệ thống thông tin được thực hiện theo các quy định chặt chẽ, từ lập hồ sơ đề xuất cấp độ đến thẩm định và phê duyệt. Mỗi hệ thống thông tin phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể theo từng cấp độ, dựa trên tiêu chuẩn TCVN 11930:2017 và các chính sách an toàn thông tin của Bộ. Các đơn vị vận hành có trách nhiệm xây dựng quy chế nội bộ, triển khai phương án bảo đảm an toàn và giám sát việc thực hiện. Quy trình này giúp chuẩn hóa quản lý và đảm bảo khả năng ứng phó nhanh chóng khi xảy ra sự cố.
Quản lý hạ tầng và bảo vệ dữ liệu
Một trong những điểm nhấn của quy chế là các quy định chi tiết về quản lý hạ tầng kỹ thuật và bảo vệ dữ liệu. Trung tâm dữ liệu và phòng máy chủ được xác định là khu vực hạn chế tiếp cận, chỉ cho phép những cá nhân có thẩm quyền ra vào. Các thiết bị mạng, máy chủ và thiết bị số phải được cài đặt trong môi trường an toàn, tách biệt với các khu vực phát triển hoặc thử nghiệm. Quy chế yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo mật như mã hóa dữ liệu, giám sát liên tục và lưu vết mọi thao tác trên hệ thống để đảm bảo tính minh bạch và khả năng kiểm soát.
 |
Đối với dữ liệu, quy chế nhấn mạnh việc phân loại và bảo vệ thông tin nhạy cảm. Các đơn vị phải triển khai hệ thống lưu trữ độc lập để sao lưu dữ liệu, áp dụng mã hóa và sử dụng chữ ký số để xác thực. Đặc biệt, khi thiết bị công nghệ thông tin thay đổi mục đích sử dụng hoặc thanh lý, dữ liệu phải được xóa hoàn toàn hoặc tiêu hủy vật lý để tránh rò rỉ. Quy định này giúp bảo vệ thông tin nội bộ, giảm thiểu rủi ro từ các hành vi truy cập trái phép hoặc sử dụng sai mục đích.
Hạ tầng mạng cũng được quy định chặt chẽ, với việc phân vùng mạng nội bộ thành các khu vực chức năng như mạng máy chủ công cộng, mạng máy chủ nội bộ và mạng quản trị. Các kết nối Internet phải đi qua hệ thống tường lửa và các giải pháp bảo mật, đồng thời lọc bỏ truy cập đến các trang web có nguy cơ chứa mã độc hoặc nội dung không phù hợp. Những biện pháp này nhằm xây dựng một môi trường mạng an toàn, hạn chế nguy cơ từ các cuộc tấn công từ chối dịch vụ hoặc xâm nhập trái phép.
Ứng phó sự cố và giám sát an toàn thông tin
Quy chế cũng quy định về giám sát và ứng phó sự cố an toàn thông tin mạng. Cục Chuyển đổi số được giao nhiệm vụ tổ chức đội ứng cứu sự cố, phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ để xây dựng kế hoạch ứng phó. Mỗi đơn vị phải thiết lập kênh liên lạc, bao gồm đường dây nóng và email, để tiếp nhận và xử lý thông tin về sự cố. Quy trình ứng cứu được xây dựng theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt, từ xác minh sự cố, phân loại đến báo cáo và khắc phục, đảm bảo giảm thiểu thiệt hại và khôi phục hoạt động nhanh chóng.
Việc giám sát an toàn thông tin được thực hiện liên tục, với yêu cầu tất cả các hệ thống thông tin phải ghi và lưu trữ nhật ký hoạt động trong ít nhất ba tháng. Các đơn vị chủ quản có trách nhiệm phối hợp với Cục Chuyển đổi số để giám sát và đánh giá hiệu quả các biện pháp bảo mật. Tổ chức kiểm tra, đánh giá định kỳ hoặc sau mỗi lần nâng cấp hệ thống, nhằm phát hiện và khắc phục các lỗ hổng bảo mật.
Quy chế nhấn mạnh trách nhiệm của từng cá nhân, từ lãnh đạo đơn vị đến công chức, viên chức và người lao động. Thủ trưởng các đơn vị có nhiệm vụ phổ biến, kiểm tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các vi phạm liên quan đến an toàn thông tin. Công chức và viên chức phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, báo cáo kịp thời các dấu hiệu bất thường và cam kết bảo mật thông tin. Các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng hoặc vận hành hệ thống thông tin cũng phải ký cam kết không tiết lộ thông tin quan trọng.
Để khuyến khích tuân thủ, quy chế đưa ra cơ chế khen thưởng và kỷ luật. Kết quả thực hiện quy chế là một tiêu chí đánh giá hiệu quả công việc hàng năm của cá nhân và đơn vị. Những vi phạm, tùy theo mức độ, sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc chịu trách nhiệm bồi thường nếu gây thiệt hại. Điều này thể hiện sự nghiêm minh trong việc thực thi quy chế, đồng thời khuyến khích tinh thần trách nhiệm trong toàn hệ thống.
Quy chế bảo đảm an toàn thông tin mạng và an ninh mạng của Bộ NNMT là công cụ để xây dựng một môi trường số an toàn, minh bạch và hiệu quả. Với các quy định chặt chẽ và sự phân công rõ ràng, quy chế không chỉ đáp ứng yêu cầu của pháp luật mà còn góp phần nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ thông tin trong thời đại số hóa. Đây là nền tảng để Bộ NNMT tiếp tục phát triển bền vững, đáp ứng các yêu cầu của chuyển đổi số và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Hải Đăng