Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp trăn trở, ngành nông nghiệp có nhu cầu chuyển đổi số cao nhất nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nhất, đặc biệt là vấn đề dữ liệu. Mặc dù có nhiều dữ liệu cần thu thập, nhưng hiện tại lượng dữ liệu thu thập được rất ít. Bên cạnh đó, nhân lực trong lĩnh vực này của ngành nông nghiệp rất yếu, đa số là nông dân với điều kiện và kiến thức hạn chế. “Để chuyển đổi số thành công, cần có kiến thức, kỹ năng và thái độ đúng đắn. Thái độ quyết tâm của cán bộ là yếu tố quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi số. Nếu chuyển đổi số không thành công, ngành nông nghiệp sẽ không thể phát triển, ngững người nông dân yếu thế cùng ngành sản xuất sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi đó Bộ NN&PTNT đứng thứ mấy không còn quan trọng.”, thứ trưởng Hiệp nhấn mạnh.
Thứ trưởng cho biết Bộ NN&PTNT sẽ ban hành khung kiến trúc dữ liệu ngành nông nghiệp trong quý III để giúp các đơn vị, đặc biệt là các xã, ngành và địa phương, biết cách triển khai dữ liệu của mình. Việc thiếu dữ liệu là một rào cản lớn trong quá trình chuyển đổi số. Bộ cũng cam kết triển khai từ tháng 7, tập trung vào rà soát và điều chỉnh cơ sở dữ liệu tàu cá, đảm bảo dữ liệu đúng, đủ và sạch để quản lý hiệu quả và giảm thiểu thẻ vàng từ EU.
Nâng cao năng lực cán bộ và kiến trúc Chính phủ điện tử
Tại hội nghị, ông Đặng Duy Hiển, Phó Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp đã có bài trình bày giới thiệu kiến trúc Chính phủ điện tử (CPĐT) phiên bản 3.0 và sự khác biệt giữa hai phiên bản 2.0 và 3.0.
Kiến trúc CPĐT là một khuôn khổ toàn diện nhằm xây dựng và triển khai các dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo tính liên thông, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Phiên bản 3.0 của Kiến trúc CPĐT, được Bộ NN&PTNT xây dựng, mang đến nhiều cải tiến và đổi mới so với phiên bản 2.0, giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người dân và doanh nghiệp.
Bộ NN&PTNT cũng cam kết nâng cao năng lực cho cán bộ, bắt đầu từ lãnh đạo các đơn vị và cán bộ công chức của Bộ, sau đó là các địa phương. Ông Đặng Duy Hiển, Phó Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp, cho biết ngành nông nghiệp muốn chuyển đổi số toàn diện cần hoàn thiện "tam quy" gồm: quy hoạch - đảm bảo hướng đầu tư; quy chuẩn - giúp các địa phương và bộ liên kết dữ liệu và quy chế; tuân thủ quy định, khen thưởng hoặc xử lý vi phạm.
Bộ đã xây dựng kiến trúc CPĐT 3.0 dựa trên 5 thành phần: Nghiệp vụ bao gồm các quy trình và hoạt động của cơ quan nhà nước được số hóa, giúp cải thiện hiệu quả và tính minh bạch trong quản lý. Dữ liệu tập trung vào việc thu thập, quản lý và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, đảm bảo tính chính xác, toàn vẹn và an toàn của thông tin. Ứng dụng được phát triển và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ công tác quản lý và cung cấp dịch vụ công. Công nghệ sử dụng các công nghệ tiên tiến như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet vạn vật (IoT) để nâng cao hiệu quả hoạt động. Cuối cùng là an toàn thông tin, đảm bảo an ninh, bảo mật và bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình triển khai và vận hành CPĐT.
Ảnh 2: Hội nghị có sự tham gia của tất cả lãnh đạo và cán bộ các đơn vị trực thuộc Bộ NN&PTNT
|
Đề án 06 và việc định danh tàu thuyền
Về triển khai Đề án 06 liên quan đến ngành nông nghiệp và nội dung định danh tàu thuyền, ông Đào Phan Khải, tổ trưởng Tổ Đề án 06 (Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - C06), Bộ Công an cho biết, những nghị định đã ban hành có thể ứng dụng vào quy trình điện tử của ngành nông nghiệp, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Trong tháng 5 vừa qua, Đề án 06 của Chính phủ về "Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030" đã đạt được nhiều thành quả quan trọng có thể ứng dụng ngay vào ngành nông nghiệp. Một trong những trọng tâm của đề án là việc định danh tàu thuyền, nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý.
Mục tiêu chính của Đề án 06 là phát triển hệ thống dữ liệu dân cư và định danh điện tử để phục vụ cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Đối với ngành nông nghiệp, đề án này đặc biệt tập trung vào việc định danh tàu thuyền, giúp cải thiện quản lý và giám sát hoạt động khai thác, đặc biệt trong bối cảnh giảm thiểu thẻ vàng từ EU.
Ông Khải chia sẻ, mặc dù đã có nhiều nghị định được ban hành để hỗ trợ quy trình điện tử trong ngành nông nghiệp, hạ tầng của các đơn vị liên quan vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, một phần do khó khăn về kinh phí. Để giải quyết vấn đề này, cần có lộ trình từng bước làm sạch dữ liệu và rà soát để cấp mã số định danh duy nhất cho tàu thuyền. Mã số này sẽ được gắn với chủ sở hữu là cá nhân hoặc tổ chức, đảm bảo tính minh bạch và chính xác trong quản lý.
Là đơn vị trực tiếp làm việc và phối hợp với Cục C06, đại diện Cục Thủy sản, ông Nguyễn Hải Đăng chia sẻ một số khó khăn vướng mắc trong quá trình rà soát, làm sạch và tích hợp dữ liệu định danh tàu cá. Hiện nay hệ thống phần mềm quản lý các cơ sở dữ liệu của Cục Thủy sản đã được xây dựng từ lâu, việc trích xuất dữ liệu để xử lý sau đó nhập lại file dữ liệu vào hệ thống có nguy cơ phát sinh lỗi. Nếu nhập thủ công dữ liệu thì không thể đảm bảo tiến độ, có những chi cục Thủy sản địa phương quản lý tới hơn 6000 tàu cá. Vì vậy, ông Đăng rất mong Cục C06 tích cực hỗ trợ Cục Thủy sản trong việc đảm bảo an toàn cho các phần mềm quản lý này.
Ảnh 3: Đại diện Cục Thủy sản, ông Nguyễn Hải Đăng đóng góp ý kiến
|
Việc định danh tàu thuyền không chỉ giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính mà còn nâng cao khả năng quản lý và giám sát của các cơ quan chức năng. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực giảm thiểu thẻ vàng từ EU, đảm bảo tuân thủ các quy định quốc tế về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Hệ thống định danh điện tử sẽ hỗ trợ việc truy xuất nguồn gốc và đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động khai thác, từ đó nâng cao uy tín và chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
Thúc đẩy Truy xuất Nguồn gốc và Xuất khẩu Cà phê Bền vững
Tại hội nghị, tổ chức Sáng kiến thương mại Bền vững Việt Nam (IDH) đã được mời tới chia sẻ giải pháp về chuyển đổi số trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin rừng và vùng sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu của quy định EUDR mà IDH đang triển khai rất hiệu quả.
Quy định EUDR (European Union Deforestation Regulation) của Liên minh châu Âu (EU) đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường đối với các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu vào thị trường EU, trong đó có cà phê. Nhằm đáp ứng những yêu cầu này, IDH đã khởi xướng Dự án EUDR, tập trung vào việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và truy xuất nguồn gốc sản xuất cà phê tại Việt Nam.
EUDR yêu cầu các quốc gia xuất khẩu cà phê sang EU phải chứng minh nguồn gốc hợp pháp của đất trồng và cam kết không phá rừng. Điều này đòi hỏi một hệ thống dữ liệu chính xác, minh bạch và có khả năng truy xuất nguồn gốc đến từng vườn trồng cà phê. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống này tại Việt Nam gặp nhiều thách thức, đặc biệt đối với các vườn trồng manh mún, nhỏ lẻ và thiếu hụt hạ tầng công nghệ.
Ảnh 4: Đại diện tổ chức Sáng kiến thương mại Bền vững Việt Nam (IDH)
|
Bà Trần Quỳnh Chi, Giám đốc vùng Tổ chức IDH, cho biết quy định EUDR đặt ra thách thức lớn cho ngành cà phê trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và truy xuất nguồn gốc sản xuất. Việc xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc rất tốn kém, đặc biệt là đối với các vườn trồng manh mún, nhỏ lẻ. IDH đưa ra một loạt giải pháp như hợp tác với Bộ NN&PTNT và các tỉnh để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu định vị GPS cho các vườn trồng cà phê, sử dụng ảnh vệ tinh và bản đồ quy hoạch để đánh giá và cập nhật tình trạng rừng, đồng thời thực hiện thử nghiệm trên 10 huyện tại các tỉnh Tây Nguyên. Hệ thống thông tin vùng trồng được thiết kế mở, cho phép các doanh nghiệp dễ dàng truy cập và sử dụng dữ liệu.
Dự án EUDR của IDH hướng đến việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp, sử dụng công nghệ định vị GPS và ảnh vệ tinh để cập nhật tình trạng rừng và vùng trồng cà phê. Hệ thống này sẽ cho phép truy xuất nguồn gốc sản phẩm cà phê từ vườn trồng đến xuất khẩu, đảm bảo tuân thủ các quy định của EUDR và duy trì xuất khẩu cà phê sang thị trường EU.
Dự án này là một bước tiến quan trọng trong nỗ lực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngành cà phê Việt Nam. Bằng cách xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu và truy xuất nguồn gốc hiệu quả, dự án không chỉ giúp Việt Nam tuân thủ các quy định quốc tế mà còn góp phần nâng cao giá trị và uy tín của cà phê Việt Nam trên thị trường toàn cầu. Sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ ngành, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế sẽ là yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu này.
Hải Dương