Quy hoạch Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030 (13-05-2024)

Ngày 9/5/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang vừa ký Quyết định số 389/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quy hoạch Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030
Ảnh minh họa

Theo đó, quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030 bám sát chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản; phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thuỷ sản, kinh tế biển; phù hợp quy hoạch tổng thể quốc gia, không gian biển quốc gia, sử dụng đất quốc gia và các quy hoạch có liên quan nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ; bảo đảm lợi ích quốc gia, quốc phòng và an ninh.

Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2030, bảo vệ, bảo tồn, phát triển nguồn lợi thủy sản trên các loại hình thủy vực và bảo tồn đa dạng sinh học biển góp phần thực hiện mục tiêu Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phát triển khai thác thủy sản bền vững, có trách nhiệm, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống thiên tai; góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, trên biển của Việt Nam.

Mục tiêu cụ thể của Quy hoạch đến năm 2030, đối với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản: thành lập được 27 khu bảo tồn biển và hoạt động hiệu quả với tổng diện tích vùng biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 463.587 ha, chiếm khoảng 0,463% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia (các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia). 149 khu vực ở vùng biển (59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 63 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn, 27 khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản) và 119 khu vực nội địa (66 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 53 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn) được khoanh vùng bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống của các loài thủy sản.

Đối với khai thác thủy sản, tổng số tàu cá tối đa khoảng 83.600 chiếc. Cơ cấu nghề khai thác thủy sản như sau: Nghề lưới kéo chiếm 10%; nghề lưới vây chiếm 6,1%; nghề lưới rê chiếm 40,3%; nghề câu chiếm 18,9%; nghề lưới chụp chiếm 3%; nghề lồng bẫy chiếm 2,9%; nghề khác chiếm 16,6% và nghề hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản chiếm 2,2% tổng số tàu cá. Tổng số lao động giảm xuống còn khoảng 600.000 người. Hoàn chỉnh hệ thống cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá thành một hệ thống liên hoàn, liên vùng nhằm đáp ứng nhu cầu neo đậu, dịch vụ hậu cần nghề cá.

Đặt mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương với các nước có nghề cá phát triển trong khu vực và trên thế giới; đa dạng sinh học biển và các thủy vực nội địa được bảo tồn và phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao; góp phần bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, trên biển của Việt Nam.

Tăng cường bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản

Định hướng phục hồi nguồn lợi thủy sản đặc biệt các loài thủy sản có giá trị kinh tế, loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản đặc hữu; tăng cường công tác quản lý, đánh giá, bảo tồn, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản trên các loại hình thủy vực ở vùng nội địa và vùng biển. Tăng quy mô, diện tích các khu vực biển được bảo tồn và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thành lập mới và tổ chức quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển; gắn bảo tồn với phát triển du dịch sinh thái biển, góp phần bảo vệ, sử dụng bền vững hệ sinh thái biển và các nguồn tài nguyên biển; bảo vệ không gian di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, phát triển kinh tế du lịch biển. Xác định các khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn là khu vực thủy sản tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống; khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản; nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản gây nguy hại, hủy diệt nguồn lợi thủy sản, môi trường sống của loài thủy sản và hệ sinh thái thủy sinh. Hình thành khu vực cư trú nhân tạo cho loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản có giá trị kinh tế, khoa học, loài thủy sản bản địa, loài thủy sản đặc hữu trên các vùng biển. Lưu giữ, bảo tồn và phát triển nguồn gen của các loài thuỷ sản nguy cấp, quý, hiếm, loài bản địa, loài đặc hữu, loài có giá trị kinh tế. Đa dạng hình thức lưu giữ nguồn gen, lựa chọn đối tượng tiềm năng, đầu tư nghiên cứu sản xuất giống để chủ động trong công tác tái tạo, phục hồi nguồn lợi thủy sản và phát triển kinh tế.

Cụ thể, sẽ tiến hành chuyển tiếp 06 khu bảo tồn biển đã được thành lập và thành lập mới 21 khu bảo tồn biển; trong đó, có 11 khu bảo tồn biển cấp quốc gia và 16 khu bảo tồn biển cấp tỉnh. Xác định 59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và 63 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn. Hình thành 27 khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản.

Thực hiện lưu giữ 138 nguồn gen loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản bản địa, đặc hữu, loài thủy sản có giá trị kinh tế và khoa học trong môi trường tự nhiên, nhân tạo và trong phòng thí nghiệm. Xác định và bảo vệ đường di cư tự nhiên của 16 loài thủy sản, bao gồm 07 loài cá, 05 loài rùa biển, 03 loài mực và 01 loài ghẹ.

Đối với vùng nội địa, xác định 66 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, trong đó có 14 khu trên hồ và 52 khu trên sông và 53 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn, trong đó có 19 khu trên hồ và 34 khu trên sông. Thực hiện lưu giữ nguồn gen của 94 loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, loài thủy sản bản địa, đặc hữu, loài thủy sản có giá trị kinh tế và khoa học trong môi trường tự nhiên, nhân tạo và trong phòng thí nghiệm. Tiếp tục bảo vệ đường di cư tự nhiên của 05 loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, bao gồm: Cá mòi cờ chấm, cá mòi cờ hoa, cá chình bông, cá chình mun, cá cháy. Xác định và bảo vệ đường di cư tự nhiên của 07 loài thủy sản, bao gồm: cá anh vũ, cá lăng chấm, cá chiên, cá tra dầu, cá hô, cá vồ cờ, cá chài.

Giảm đội tàu và sản lượng thủy sản khai thác

Trong thời gian tới, thực hiện giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, điều chỉnh tỷ trọng sản lượng khai thác giữa các vùng biển, phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản; khai thác có chọn lọc các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao. Điều chỉnh số lượng tàu cá khai thác thủy sản, chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản ở các thủy vực vùng nội địa, vùng biển phù hợp với khả năng cho phép khai thác của nguồn lợi thủy sản, đặc biệt giảm tỷ trọng nghề lưới kéo trên biển; gắn phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân với phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, nghề cá giải trí. Củng cố, đổi mới các tổ, đội, hợp tác xã, nghiệp đoàn nghề cá; tổ chức sản xuất thủy sản khai thác theo chuỗi giá trị, chú trọng tăng về giá trị sản xuất. Đến năm 2030, khoảng 80% tàu cá khai thác thủy sản ở vùng lộng và vùng khơi tham gia chuỗi liên kết sản xuất trên biển.

Ứng dụng khoa và học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, hoạt động khai thác thủy sản, bảo quản sản phẩm khai thác, hiện đại hóa công tác quản lý nghề cá trên biển. Hình thành nguồn nhân lực tham gia khai thác thủy sản chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghệ và hội nhập quốc tế. Khai thác hiệu quả, bền vững tiềm năng thủy sản tại các hồ tự nhiên, hồ chứa, sông, suối; gắn khai thác với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, đa dạng sinh học, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm sinh kế cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, người có thu nhập thấp tại các vùng trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.

Đến năm 2030, tổng số tàu cá còn khoảng 83.600 chiếc. Theo lộ trình điều chỉnh cơ cấu nghề, giảm số lượng tàu cá của cả nước; các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương điều chỉnh giảm tối thiểu 12% tổng số tàu cá so với năm 2020 để bảo đảm phát triển khai thác thủy sản hiệu quả và bền vững. Cụ thể, tàu cá theo vùng khai thác thủy sản: Vùng ven bờ (tàu cá từ 6-<12 m) khoảng 39.000 chiếc, chiếm 46,6%; vùng lộng (tàu cá từ 12-<15m) khoảng 17.060 chiếc, chiếm 20,4%; vùng khơi (tàu cá 215 m) khoảng 27.540 chiếc, chiếm 33,0% tổng số tàu cá cả nước; tàu theo nghề khai thác thủy sản: Nghề lưới kéo là 8.360 chiếc, chiếm 10,0%; nghề lưới vây là 5.110 chiếc, chiếm 6,1%; nghề lưới rê là 33.700 chiếc, chiếm 40,3%; nghề nghề câu là 15.840 chiếc, chiếm 18,9%; nghề lưới chụp là 2.480 chiếc, chiếm 3,0%; nghề lồng bẫy là 2.450 chiếc, chiếm 2,9%; nghề khác là 13.840 chiếc, chiếm 16,6% và nghề hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản là 1.820 chiếc, chiếm 2,2% tổng số tàu cá cả nước.

Cơ cấu nghề theo các vùng khai thác thủy sản đến năm 2030 như sau: Vùng ven bờ: Nghề lưới rê chiếm 57,0%, nghề câu chiếm 16,2%, nghề lồng bẫy chiếm 2,2%, nghề khác chiếm 24,6% tổng số tàu cá vùng ven bờ; Vùng lộng: Nghề lưới kéo chiếm 15,5%, nghề lưới rê chiếm 29,1%, nghề lưới vây chiếm 7,3%, nghề câu chiếm 28,2%, nghề lưới chụp chiếm 3,1%, nghề lồng bẫy chiếm 5,3%, nghề khác chiếm 9,2%, nghề hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản chiếm 2,3% tổng số tàu cá vùng lộng; Vùng khơi: Nghề lưới kéo chiếm 20,7%, nghề lưới rê chiếm 23,6%, nghề lưới vây chiếm 14,2%, nghề câu chiếm 17,1%, nghề lưới chụp chiếm 7,1%, nghề lồng bẫy chiếm 2,5%, nghề khác chiếm 9,6%, nghề hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản chiếm 5,2% tổng số tàu cá vùng khơi.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì thực hiện quy hoạch

Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm tổ chức công bố quy hoạch; xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch; cung cấp dữ liệu có liên quan để cập nhật vào hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch theo quy định; Ban hành Danh mục khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn; Danh mục khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản theo quy định tại Luật Thủy sản; Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý và tổ chức thực hiện Quy hoạch; tăng cường thực hiện các hoạt động điều tra để cung cấp số liệu phục vụ lập, điều chỉnh quy hoạch.

Bộ NN&PTNT chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch; định kỳ đánh giá thực hiện quy hoạch, rà soát, điều chỉnh quy hoạch theo quy định. Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, phù hợp với các quy định chung của khu vực và quốc tế. Báo cáo, đánh giá tình hình triển khai quy hoạch khi kết thúc từng giai đoạn trung hạn 2021 - 2025 và 2026 - 2030, đồng thời tổng kết tình hình thực hiện các mục tiêu Quy hoạch để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh các nội dung quy hoạch phù hợp với thực tiễn quy hoạch (nếu có). Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, đề án, dự án, chương trình liên quan đến bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản phù hợp với mục tiêu Quy hoạch. Ngoài ra, thực hiện xem xét, phê duyệt, tổ chức triển khai các dự án ưu tiên bảo đảm theo đúng quy định, đúng quy hoạch đã được phê duyệt, hiệu quả, khả thi, không để xảy ra thất thoát, lãng phí.

Hải Đăng

Ý kiến bạn đọc

Tin khác