Tận dung cơ hội, chuyển hóa thách thức thành động lực phát triển (14-02-2025)

Trung tuần tháng 2/2025, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu tổ chức Hội nghị “Phát triển ngành tôm nước lợ năm 2025”. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến và ông Ngô Vũ Thăng – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu đồng chủ trì Hội nghị.
Tận dung cơ hội, chuyển hóa thách thức thành động lực phát triển

Tại đây, các đại biểu đã được nghe nhiều báo cáo tham luận của các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, các Hiệp hội ngành hàng, Trường Đại học, Viện nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học và các ý kiến phát biểu của đại diện các cơ quan quản lý thủy sản tại địa phương, doanh nghiệp và người nuôi tham gia chuỗi giá trị ngành hàng tôm. Với tinh thần đồng hành, kiến tạo, thẳng thắn, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã đề nghị đại biểu thẳng thắn nêu lên những khó khăn, hạn chế, cũng như mạnh dạn hiến kế các giải pháp phát triển nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, phát triển ngành hàng tôm năm 2025 và các năm tiếp theo.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định: Năm 2024, ngành Tôm nước lợ đã có sự bứt phá và đạt kết quả tốt với sự tăng trưởng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu (diện tích tăng 1,7%, sản lượng tăng 15,3%, kim ngạch xuất khẩu tăng 14%). Kết quả đạt được là sự nỗ lực của toàn ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người nuôi tôm sau năm 2023 gặp nhiều khó khăn do sụt giảm về nhu cầu tiêu thụ và giá nguyên liệu toàn cầu. Đồng thời, kết quả này cũng cho thấy sự chuyển mình của ngành Thủy sản; là kết quả của quá trình tái cơ cấu, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ. Cùng với đó, việc khắc phục hạn mặn, khôi phục nhanh chóng sau thiên thai, phát triển vùng nguyên liệu gắn kết với chế biến và mở rộng thị trường xuất khẩu cũng là những nhân tố tạo động lực cho ngành Thủy sản phát triển bền vững.

Tuy nhiên, năm 2024 ngành tôm Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như: Hạ tầng vùng nuôi nhiều nơi chưa đảm bảo (dùng chung hệ thống thuỷ lợi cho sản xuất nông nghiệp dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh); Tôm bố mẹ còn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu; Giá thành sản xuất vẫn cao; Sản xuất tôm vẫn tiềm ẩn nguy cơ về dịch bệnh, ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất.

Về công nghiệp chế biến, đã có những doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với quy mô lớn hơn và doanh số một số mặt hàng nằm trong danh sách những doanh nghiệp đứng đầu thế giới, có nhiều lợi thế về sự đa dạng sản phẩm chế biến nhưng nhìn chung, sản phẩm chưa thực sự phong phú, tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển đa dạng hơn, tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm tôm; công nghệ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng, sản phẩm phi thực phẩm từ phụ liệu tôm cũng cần phải phát triển mạnh mẽ.

Hiện nay, thị trường xuất khẩu đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm, trách nhiệm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; rào cản thương mại ngày càng siết chặt, tình trạng bảo hộ sản phẩm trong nước diễn ra ở nhiều nước nhập khẩu, cạnh tranh rất lớn đối với các nước xuất khẩu cùng mặt hàng… Ngoài thách thức nội tại khiến giá thành cao, giảm sức cạnh tranh của Tôm Việt trên trường quốc tế, thì yếu tố khách quan là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến xuất khẩu tôm trong năm 2024. Suy giảm kinh tế toàn cầu, lạm phát và lãi suất tăng tại những thị trường xuất khẩu chính của tôm Việt Nam (Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc...) khiến sức mua của người tiêu dùng sụt giảm mạnh và có xu hướng chuyển sang các sản phẩm giá rẻ.

Mặc dù đến giữa năm 2024, lạm phát đã bắt đầu giảm ở các nước lớn song nhu cầu của người tiêu dùng đối với các loài giáp xác (trong đó có tôm) vẫn rất yếu; các nhà nhập khẩu có xu hướng giảm thu mua, cố gắng bán để giải phóng hàng tồn kho và hạn chế lỗ. Do đó, giá tôm có xu hướng tăng vào cuối năm 2024 và dự kiến nguồn cung toàn cầu năm 2025 tiếp tục tăng. Sự cạnh tranh giữa các nước sản xuất tôm tiếp tục gay gắt và sự cạnh tranh về giá vẫn là cuộc đua giữa các nước, là áp lực cho tôm Việt Nam so với tôm sản xuất tại Ecuador, Ấn Độ…

Thích ứng linh hoạt - Khơi thông nguồn lực - Tăng tốc bứt phá

Năm 2025 được dự báo là một năm có nhiều biến động; nhưng sẽ vẫn có những cơ hội và triển vọng hợp tác. Đối thoại và hợp tác quốc tế vẫn là xu hướng lớn; kinh tế thế giới giữ đà tăng trưởng; các cơ chế đa phương đứng trước cơ hội cải tổ để hướng tới quản trị toàn cầu hiệu quả hơn. Đây sẽ là những tiền đề quan trọng để ngành tôm Việt Nam tận dung cơ hội, chuyển hóa thách thức thành động lực phát triển, thúc đẩy sản xuất trong bối cảnh thị trường xuất khẩu đang dần phục hồi, sự thay đổi về nguồn cung cho các thị trường xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, ngành tôm phấn đấu “Thích ứng linh hoạt - Khơi thông nguồn lực - Tăng tốc bứt phá” vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Tại phiên bế mạc, kết luận và chỉ đạo Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến đánh giá cao các bài trình bày, ý kiến thảo luận rõ ràng, có trọng tâm và có ý nghĩa để nghiên cứu đề xuất giải pháp cho năm 2025 và các năm tiếp theo. Nhằm tháo gỡ khó khăn, tận dụng cơ hội, thúc đẩy phát triển ngành tôm nước lợ hiệu quả, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và trước những biến động của thị trường, đề nghị các cơ quan, đơn vị tập trung thực hiện những nội dung quan trọng.

Cục Thủy sản: Hướng dẫn, chỉ đạo địa phương triển khai tốt công tác đăng ký và cấp mã số cho cơ sở nuôi tôm nước lợ theo Nghị định 37/2024/NĐ-CP. Chỉ đạo quản lý tốt về điều kiện nuôi tôm thương phẩm; Điều kiện cơ sở sản xuất giống, thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường dùng trong nuôi trồng thủy sản; về chất lượng, số lượng và việc lưu thông vật tư đầu vào phục vụ sản xuất.

Bám sát tình hình sản xuất tại địa phương, khả năng cung ứng tôm nguyên liệu cho chế biến; Phối hợp chặt chẽ với VASEP và các đơn vị liên quan trong việc đánh giá nhu cầu nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu tham mưu Bộ chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất hiệu quả; Tham mưu chỉ đạo, triển khai đồng bộ, quyết liệt công tác quan trắc, cảnh báo môi trường các vùng nuôi tôm trọng điểm; Hướng dẫn, kiểm tra và kiểm soát an toàn thực phẩm trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm, phối hợp chặt chẽ với cục Thú y trong phòng, chống dịch bệnh cho tôm. Tham mưu, chỉ đạo phát triển nuôi tôm nước lợ theo hướng ứng dụng công nghệ cao (tăng diện tích nuôi tôm công nghệ cao ở những khu vực phù hợp và đảm bảo quản lý môi trường bền vững).

Duy trì diện tích nuôi tôm lúa, tôm rừng, quảng canh cải tiến, tôm hữu cơ kết hợp áp dụng cải tiến kỹ thuật tăng năng suất, sản lượng nuôi đối với diện tích nuôi tôm sú quảng canh, quảng canh cải tiến, sinh thái, hữu cơ. Tham mưu, chỉ đạo tổ chức sản xuất theo hướng liên kết, sản xuất có chứng nhận chất lượng để sản xuất an toàn, giảm giá thành sản xuất và đảm bảo đầu ra cho sản phẩm; Thực hiện chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn phù hợp và hiệu quả với từng phương thức nuôi; ưu tiên công nghệ tuần hoàn nước/ít thay nước, thu gom và tái sử dụng chất thải trong nuôi tôm, đáp ứng yêu cầu của thị trường về bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật và có trách nhiệm xã hội.

Đặc biệt, hướng dẫn, đôn đốc địa phương rà soát các nhiệm vụ, mục tiêu và kết quả triển khai thực hiện Kế hoạch hành động Quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam; Tổ chức thống kê, đánh giá kết quả triển khai Kế hoạch này và tổng kết và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển Thị trường: Quản lý tốt chất lượng và ATTP thủy sản (kiểm soát tạp chất, tồn dư hóa chất, kháng sinh cấm...); Thường xuyên đánh giá diễn biến thị trường; Chủ trì, phối hợp đấu tranh với các rào cản kỹ thuật; Thông tin và hướng dẫn triển khai các yêu cầu, chính sách mới của thị trường đến người nuôi và doanh nghiệp. Đặc biệt quan tâm phát triển sản phẩm tôm Việt Nam ở thị trường Hala, Nhật Bản, Trung Quốc..., thúc đẩy phát triển thị trường mới cho sản phẩm tôm Việt Nam.

Vụ Hợp tác quốc tế: Kịp thời thông tin, phối hợp xử lý các rào cản từ thị trường nhập khẩu tôm.

Các viện nghiên cứu, trường đại học: Đề xuất, hợp tác nghiên cứu các nhiệm vụ KHCN về chọn tạo giống tôm sức chống chịu cao với môi trường, dịch bệnh; tăng trưởng nhanh; Xây dựng các quy trình công nghệ nuôi tôm giảm phát thải Carbon, theo hướng tuần hoàn, tái sử dụng nước, tái sử dụng phụ phẩm trong sản xuất, chế biến tôm hiệu quả, thân thiện với môi trường để người dân, doanh nghiệp áp dụng. Tham mưu Bộ về quy hoạch phát triển công nghệ trong ngành tôm nước lợ.

Các địa phương: Thực hiện tốt công tác quản lý, kiểm tra, giám sát điều kiện nuôi tôm, điều kiện cơ sở sản xuất và chất lượng giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; Kiểm tra chặt chẽ việc lưu thông, tiêu thụ tôm giống kém chất lượng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về ATTP trong nuôi tôm; kiên quyết xử lý sai phạm. Thực hiện có hiệu quả công tác quan trắc, cảnh báo môi trường; hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch bệnh, các giải pháp kỹ thuật để nuôi tôm hiệu quả.

Bên cạnh đó, tăng cường thông tin, tuyên truyền, chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật để nhân rộng các mô hình nuôi tôm nhiều giai đoạn, nuôi sử dụng chế phẩm sinh học, nuôi tuần hoàn khép kín, nuôi tôm an toàn sinh học, nuôi công nghệ cao... và các mô hình liên kết sản xuất hiệu quả. Những địa phương có hạ tầng phù hợp cần đẩy nhanh tăng diện tích nuôi tôm công nghệ cao; duy trì diện tích nuôi đồng thời đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật tăng năng suất, sản lượng nuôi tôm lúa, tôm rừng, quảng canh cải tiến, tôm hữu cơ ở các tỉnh trọng điểm Cà Mau, Kiên Giang để phát huy lợi thế tôm sú.

Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và người nuôi tôm tổ chức liên kết sản xuất theo chuỗi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với các chính sách phát triển nuôi tôm tại địa phương và của chính phủ. Tổ chức thống kê, đánh giá kết quả triển khai các nhiệm vụ, chỉ tiêu được giao và các kế hoạch triển khai của địa phương, đồng thời báo cáo Bộ (qua Cục Thủy sản).

Hội, Hiệp hội: Thường xuyên đánh giá nhu cầu nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu tôm, báo cáo Bộ Nông nghiệp và PTNT (qua Cục Thủy sản) để phối hợp và chủ động kế hoạch sản xuất. Vận động doanh nghiệp chế biến thủy sản xây dựng, phát triển vùng nguyên liệu tại địa phương. Vận động doanh nghiệp chủ động nghiên cứu các yêu cầu mới của thị trường, áp dụng và triển khai trong quá trình sản xuất đảm bảo không vướng mắc các quy định mới.

Đối với các doanh nghiệp, người nuôi tôm, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, ưu tiên phát triển bền vững. Chủ động sản xuất theo yêu cầu của thị trường về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Đặc biệt hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi để giảm khâu trung gian, giảm giá thành sản xuất; Áp dụng các hình thức nuôi có chứng nhận (như VietGAP, GlobalGAP, ASC) để nâng cao giá trị sản phẩm. Tăng cường xúc tiến thương mại đối với tiêu thụ nội địa và các thị trường mới.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ phối hợp chặt chẽ với các địa phương, Hiệp hội ngành hàng và các Doanh nghiệp giải quyết kịp thời những khó khăn, khắc phục những bất lợi, thách thức, phát huy tối đa cơ hội để đẩy nhanh sản xuất, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng đề ra cho năm 2025 và hướng đến sự phát triển bền vững.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác