Hội nghị là một cơ hội quan trọng để các chuyên gia, nhà khoa học, và doanh nghiệp cùng nhau tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao năng lực sản xuất, cải thiện chất lượng giống cá tra, đảm bảo tính bền vững và đối phó với những thách thức từ thị trường quốc tế. Tham dự hội nghị có sự hiện diện của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Huỳnh Minh Tuấn, lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan cùng đông đảo các chuyên gia nghiên cứu và đại diện các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản.
Trong phát biểu khai mạc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Huỳnh Minh Tuấn nhấn mạnh vai trò chiến lược của ngành cá tra đối với kinh tế của tỉnh và cả nước. Năm 2023, sản lượng cá tra của Đồng Tháp đạt 525.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 629 triệu USD, đóng góp lớn vào tổng giá trị xuất khẩu cá tra của cả nước. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2024, sản lượng thu hoạch cá tra của tỉnh đã đạt 485.755 tấn, đạt gần 90% kế hoạch năm, cho thấy sự phát triển tích cực của ngành. Dự kiến đến cuối năm, diện tích nuôi cá tra toàn tỉnh sẽ đạt khoảng 2.630 ha với sản lượng đạt gần 540.000 tấn.
Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Minh Tuấn, mặc dù ngành cá tra đang trên đà phát triển, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Một trong những vấn đề cấp bách là chất lượng giống cá tra chưa được kiểm soát tốt, dẫn đến năng suất chưa ổn định. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu, như hạn hán, xâm nhập mặn và ô nhiễm nguồn nước, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình sản xuất và ương dưỡng cá tra giống. Ông Tuấn kêu gọi sự hợp tác giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và chính quyền để tìm kiếm giải pháp hiệu quả cho các vấn đề này.
Chất lượng giống cá tra còn nhiều thách thức
Tại Hội nghị, ông Trần Công Khôi, Trưởng Phòng Giống và Thức Ăn Thủy Sản, Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) báo cáo, năm 2023 và 9 tháng đầu năm 2024, ngành hàng cá tra đã đạt được một số thành tựu mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đặc biệt, diện tích thả nuôi cá tra trong cả nước đạt khoảng 5.700 ha, tương đương 98% so với cùng kỳ năm 2022, với sản lượng ước đạt 1,61 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,8 tỷ USD trong năm 2023. Trong 9 tháng đầu năm 2024, sản lượng giống cá bột ước đạt 33,6 tỷ con, trong khi cá giống đạt khoảng 3,41 tỷ con. Dự kiến, sản lượng cá bột thu hoạch trong cả năm 2024 sẽ đạt 36,1 tỷ con (tăng 139% so với cùng kỳ năm 2023) và cá giống đạt 4,07 tỷ con (tăng 116% so với cùng kỳ năm 2023).
Tuy nhiên, ông Khôi cũng chỉ ra rằng, ngành cá tra vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, như giá nhiên liệu và vật tư đầu vào tăng cao, cùng với chi phí logistics cao, gây áp lực lên hoạt động sản xuất. Suy thoái kinh tế đã dẫn đến sự sụt giảm nhu cầu tiêu dùng tại nhiều thị trường xuất khẩu, làm giá bán cá tra nguyên liệu giảm và gây khó khăn cho các cơ sở sản xuất giống và nuôi thương phẩm. Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long, ô nhiễm môi trường và rác thải nhựa cũng đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả nuôi trồng thủy sản.
Ảnh 2: Ông Trần Công Khôi, Trưởng Phòng Giống và Thức Ăn Thủy Sản, Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT)
|
Bên cạnh đó, Ủy ban châu Âu tiếp tục duy trì khuyến cáo về việc sử dụng kích dục tố (HCG) trong sản xuất cá tra giống của Việt Nam, trong khi nhiều quốc gia khác đang đặt ra tiêu chuẩn ngày càng khắt khe đối với sản phẩm thủy sản nhập khẩu. Đặc biệt, để phát triển giống cá tra trong bối cảnh biến đổi khí hậu và rào cản thương mại quốc tế, ngành vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Tỉ lệ cá sống trung bình ở cả hai giai đoạn ương cá hương và cá giống còn rất thấp, do chất lượng nguồn nước suy giảm và các điều kiện sản xuất bị thay đổi tiêu cực. Bên cạnh đó, khả năng phòng ngừa dịch bệnh trong quá trình ương cá từ cá hương lên cá giống còn nhiều khó khăn, và việc vận chuyển cá cũng dễ gây ra tổn thương, ảnh hưởng đến chất lượng cá giống. Cuối cùng, nguồn lực hạn chế cho phát triển giống cá tra đã gây khó khăn cho nghiên cứu và sản xuất, từ đó tác động không nhỏ đến chất lượng sản phẩm.
Trong các báo cáo tiếp theo, các đại biểu từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II và Đại học Cần Thơ đã đưa ra các giải pháp khoa học nhằm giảm chi phí tăng cường chất lượng giống cá tra. Các chuyên gia khuyến nghị áp dụng vật liệu kích dục tố nội địa giá rẻ và công nghệ sinh học trong việc lai tạo giống mới có khả năng chống chịu với môi trường nước mặn và hạn hán. Điều này không chỉ giúp cải thiện năng suất, mà còn đảm bảo rằng cá tra có thể phát triển mạnh mẽ trong điều kiện môi trường ngày càng khắc nghiệt do biến đổi khí hậu.
Tại hội nghị, các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp đã cùng nhau thảo luận về những thách thức trong việc nâng cao chất lượng giống cá tra. Ông Dương Nghĩa Quốc, Chủ tịch Hiệp hội cá tra Việt Nam, nhấn mạnh rằng chất lượng giống cá tra đang là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm đầu ra. Theo ông Quốc, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng sản xuất giống cá tra cần được đặt lên hàng đầu, cùng với việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong ương dưỡng và nuôi giống. Ông kêu gọi sự quan tâm đầu tư vào các trung tâm giống cá tra hiện đại, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.
Ứng phó với biến đổi khí hậu và rào cản thương mại
Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đã chỉ ra bốn hạn chế chính của ngành hàng cá tra, trong đó nhấn mạnh tỉ lệ sống trung bình rất thấp ở cả hai giai đoạn ương cá hương và cá giống. Dù đã có nguồn cung cá bố mẹ tốt, việc sinh sản thuận lợi và nguồn cá bột ấp nở dồi dào, nhưng sự suy giảm chất lượng nguồn nước và biến đổi khí hậu đã dẫn đến những thay đổi tiêu cực trong điều kiện sản xuất, tình trạng này đang ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Đầu tiên, vấn đề dịch bệnh trong quá trình ương từ cá hương lên cá giống đang là thách thức lớn. Quy trình nuôi truyền thống với mật độ thấp đòi hỏi ao ương phải có diện tích và độ sâu lớn, sử dụng nhiều nước. Các công nghệ xử lý nước hiện tại còn khá thô sơ, chủ yếu là lắng và lọc cơ học, trong khi các biện pháp xử lý khác như hóa học và sinh học thường bị bỏ qua. Điều này đã làm giảm khả năng phòng ngừa dịch bệnh trong suốt quá trình sản xuất cá giống.
Ảnh 3: Nhiều sản phẩm được mang đến trưng bày tại hội nghị
|
Thứ hai, chất lượng cá giống trong quá trình vận chuyển từ ao ương đến ao nuôi cũng gặp nhiều vấn đề. Phương pháp vận chuyển hiện tại thường yêu cầu dồn cá vào diện tích nhỏ, gây ra va chạm và tổn thương, làm gia tăng khả năng nhiễm khuẩn, đặc biệt là bệnh thối đuôi. Việc di chuyển bằng ghe đục và phương pháp luân chuyển nước liên tục giữa khoang chứa và vùng nước bên ngoài cũng làm tăng nguy cơ lây bệnh cho cá giống.
Thứ ba, nguồn lực cho phát triển giống cá tra còn nhiều hạn chế, từ đầu tư hạ tầng đến các chương trình nghiên cứu chọn giống. Việc cấp vốn hàng năm để triển khai thường chậm, như trường hợp cấp vốn cho Dự án phát triển sản xuất giống cá tra và cá rô phi đỏ vào tháng 7 năm 2023, đã dẫn đến những khó khăn trong việc chủ động nghiên cứu và sản xuất, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm.
Để phát triển bền vững ngành hàng cá tra với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD và sản lượng đạt 1,75 triệu tấn vào năm 2024, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh cần đầu tư bài bản vào cơ sở hạ tầng cho các vùng ương nuôi cá giống và nuôi thương phẩm. Ông kêu gọi thực hiện tốt Đề án liên kết sản xuất giống cá tra ba cấp chất lượng cao tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhằm đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu con giống chất lượng cao, ổn định cung - cầu về sản xuất giống, có thương hiệu và truy xuất nguồn gốc.
Để đạt được những mục tiêu này, Thứ trưởng Tiến cũng đề nghị các địa phương cần quản lý chặt chẽ các cơ sở sản xuất giống cá tra, tăng cường công tác phòng bệnh cho đàn cá giống thông qua việc phát triển tiêm phòng vaccine, đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các hội, hiệp hội trong ngành hàng cá tra. Kết thúc hội nghị, Thứ trưởng Tiến tin tưởng rằng với những giải pháp được thảo luận và đề xuất tại hội nghị, ngành cá tra Việt Nam sẽ vượt qua những thách thức trước mắt, phát triển bền vững và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trên thị trường quốc tế.
Hải Đăng