Với gần 3.000 hòn đảo lớn nhỏ tập trung ở vùng biển ven bờ và các quần đảo ngoài khơi thuộc quyền tài phán quốc gia, nước ta có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế đảo. Mỗi hòn đảo còn là một “cột mốc chủ quyền” trên vùng biển của đất nước. Không ít đảo có lợi thế địa lý, có thể xây dựng thành trung tâm kinh tế đảo với cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ biển xa hiện đại.
Đặc biệt, trong vùng quần đảo san hô Trường Sa, có khoảng gần 1 triệu ha đầm phá nông (độ sâu 1 - 6 m) thuộc các rạn san hô vòng có môi trường thuận lợi cho nuôi hải đặc sản. Đây cũng là khu vực có tới 517 loài san hô so với 566 loài của Tam giác san hô thế giới và là nơi “duy dưỡng” toàn bộ nguồn tài nguyên sinh vật và nguồn lợi thủy sản trên biển Đông.
Bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, nhiều đảo trên vùng biển nước ta còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, đối với phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Trên đảo có các làng cá, các di tích văn hóa và lịch sử thuần Việt, góp phần tạo ra các giá trị du lịch nghề cá mà đến nay chưa được khai thác và phát triển theo đúng nghĩa.
PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, phát triển kinh tế biển đảo nhanh, mạnh, hiệu quả và bền vững chính là để khẳng định khả năng làm chủ thực tế trên những vùng biển, đảo Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Đây cũng là cách tốt nhất thực hiện chủ quyền dân sự của Việt Nam trên biển, tạo điều kiện hiện diện dân sự, góp phần thực hiện một nền quốc phòng toàn dân trên biển.
Tuy nhiên, với tiềm năng lớn và truyền thống bám biển từ ngàn đời của cha ông, việc khai thác tiềm năng biển đảo, nước ta vẫn chưa hình thành nền công nghiệp biển - đại dương theo đúng nghĩa, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Biển gắn bó với người dân Việt từ ngàn đời, là chỗ dựa sinh kế cho hàng chục triệu người, gắn với quá trình sinh tồn và phát triển của dân tộc, tạo ra một trong những nét độc đáo của văn hóa Việt - văn hóa ứng xử biển cả.
Chủ trương của nhà nước về phát triển kinh tế biển là đúng đắn nhưng đến nay chưa tiêu chí hóa được các chủ trương ấy nên kết quả đạt được còn hạn chế. Đầu tư cho phát triển biển nói chung, kinh tế biển nói riêng, đòi hỏi nguồn vốn lớn và đồng bộ nhưng lợi ích đem lại rất lâu dài. Nếu chỉ đầu tư hoặc định hướng ngắn hạn đối với phát triển biển và kinh tế biển thì sẽ khó đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra là đưa nước ta mạnh lên từ biển và làm giàu từ biển.
Hiện nay, Chính phủ chủ trương đánh thức tiềm năng dải ven biển và hệ thống đảo ven bờ miền Trung bằng việc phát triển chuỗi đô thị gắn với cảng nước sâu. Đây là một chủ trương đúng đắn và mang tầm chiến lược, phù hợp với thực tiễn phát triển của nước ta, phát huy được các bài học về mô hình tổ chức không gian kinh tế ven biển nói trên trong bối cảnh hội nhập và chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chuỗi đô thị ven biển gắn với cảng nước sâu và khu kinh tế với một lộ trình đầu tư hiệu quả sẽ tạo ra “nhu cầu nội vùng” cho miền Trung, một khu vực có nhiều tiềm năng cho kinh tế biển, kinh tế đảo và phát triển cảng biển, gần tuyến hàng hải quốc tế và khu vực.
Phù hợp với xu thế thời đại, để thực hiện các chiến lược và kế hoạch hành động tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2014 - 2020, trong lĩnh vực biển đảo Việt Nam phải từng bước chuyển từ “kinh tế biển nâu” sang “kinh tế biển xanh” dựa vào bảo tồn thiên nhiên và văn hóa biển, đảo. Khi ấy,
Cùng với kinh tế biển, phát triển kinh tế đảo nhanh mạnh, hiệu quả và bền vững chính là để khẳng định khả năng làm chủ thực tế và lâu dài trên những vùng biển, đảo Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Người dân ven biển, trên các đảocó thêm nhiều công ăn việc làm mới, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế người dân, làm thay đổi nhận thức và hành vi cá nhân, người dân sẽ bám biển làm giàu cho gia đình, quê hương và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.
Thu Hiền (tổng hợp)