Kết quả quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi cá biển, cá rô phi, cá nước lạnh và nuôi lồng bè nước ngọt trong tháng 9 năm 2023 tại một số tỉnh, thành phố trên cả nước (08-11-2023)

Thực hiện Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) giai đoạn từ năm 2021-2025, Cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và chỉ đạo Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định NTTS tiến hành quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng NTTS với 172 điểm quan trắc trên cá biển, cá rô phi, cá nước lạnh và nuôi lồng bè nước ngọt tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Kết quả quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi cá biển, cá rô phi, cá nước lạnh và nuôi lồng bè nước ngọt trong tháng 9 năm 2023 tại một số tỉnh, thành phố trên cả nước
Ảnh minh họa

Vùng nuôi cá nước lạnh khu vực Tây Nguyên

 Kết quả phân tích mẫu nước cấp vùng nuôi cá nước lạnh tại Lâm Đồng tháng 9/2023, cho thấy hầu hết các thông số quan trắc đều phù hợp cho nuôi cá nước lạnh, ngoại trừ P-PO43- vượt GHCP 1,9 lần ở hồ Tuyền Lâm (TP. Đà Lạt), vượt 2,0 lần ở Klong - Klanh (Lạc Dương) và nhiệt độ chưa phù hợp cho nuôi cá nước lạnh ở nước hồ Tuyền Lâm (20,30C). Phát hiện tảo Peridinium sp., Ceratium sp. tại hồ Tuyền Lâm nhưng với mật độ thấp chưa ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước và cá nuôi. Phát hiện tảo Peridinium sp., Ceratium sp. tại hồ Tuyền Lâm nhưng với mật độ thấp chưa ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước và cá nuôi

Vùng nuôi cá biển

Kết quả quan trắc môi trường vùng nuôi biển ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Kiên Giang trong tháng 9/2023, cho thấy: Chất lượng môi trường vùng nuôi biển ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Kiên Giang quan trắc được trong tháng 9/2023 vẫn ghi nhận có những bất lợi với nuôi biển, tuy nhiên mức độ giảm nhẹ so với giai đoạn tháng 6 - 8/2023. Vùng nuôi biển của Kiên Giang vẫn theo theo xu hướng suy giảm bất lợi đối với đối tượng nuôi biển, thể hiện rõ chất lượng môi trường vùng nuôi chịu ảnh hưởng của mùa mưa lũ.

Với kết quả ghi nhận độ muối, nhiệt độ, độ đục, độ trong, TSS duy trì không khác nhiều so với tháng 8/2023. Khu vực Hòn Tre - Kiên Giang ghi nhận cục bộ thiếu hụt DO, TSS vượt GHCP và độ muối ở khoảng 15‰. Hàm lượng N-NH4+ tăng cao, nhiều điểm có hàm lượng vượt GHCP, ở vùng Quảng Ninh với tỷ lệ mẫu vượt GHCP đạt 66,7%, Hải Phòng với tỷ lệ 50,0%, vùng nuôi của Kiên Giang với tỷ lệ 45,5%. Hàm lượng N-NO2- và P-PO43- có xu hướng giảm và nằm trong ngưỡng cho phép. Hàm lượng COD ghi nhận ở vùng Kiên Giang có 4/22 mẫu vượt ngưỡng khuyến cáo. Hàm lượng dầu ở cả 3 vùng nuôi nằm trong khoảng GHCP. So với các đợt quan trắc tháng 3, 4, 5, 6/2023, kết quả quan trắc trong tháng 9/2023 vẫn ghi nhận tỷ lệ số mẫu có hàm lượng vượt khoảng GHCP cao hơn, tuy nhiên giảm nhẹ so với tháng 7 -8/2023 (ngoại trừ vùng Kiên Giang), khoảng biến động của các các thông số thể hiện chịu ảnh hưởng chung của vùng biển ven bờ, có nhiều bất lợi với cá nuôi lồng bè.

Kết quả quan trắc sinh vật phù du cho thấy: Quần xã TVPD ở mức đa dạng kém đến khá phong phú, đa số chỉ số Dv ở mức đa dạng trung bình; chỉ số cân bằng J ở mức kém bền vững, nhất là vùng nuôi của Hải Phòng. Chỉ số H’ khá thấp, chất lượng môi trường nước chủ yếu ở mức ô nhiễm trung bình dạng α, ngoại trừ vùng nuôi ở Hòn Sơn và Nam Du (Kiên Giang) ở mức ô nhiễm trung bình dạng β. Kết quả quan trắc tảo độc hại ghi nhận mật độ ở vùng nuôi của Cát Bà (Hải Phòng) và Hòn Tre (Kiên Giang) tăng rất cao, đạt trên 1 triệu tb/l; tuy nhiên, chủ yếu là các loài tảo gây hại (Chaetoceros pseudocurvisetus, Skeletonema spp.). Kết quả quan trắc ghi nhận tảo độc Pseudonitzschia spp., Dinophysis caudata, Alexandrium affine nhưng với mật độ thấp (< 20.000tb/l). Mật độ TVPD và tảo độc hại có xu hướng tăng, các chỉ số sinh học H’, J, Dv của quần xã TVPD giảm so với tháng 3 - 6/2023, tiếp tục thể hiện xu hướng biến đổi bất lợi của môi trường vùng nuôi trong mùa mưa như đợt tháng 7 - 8/2023.

Mật độ Vibrio tổng số ở vùng nuôi của Hải Phòng và Kiên Giang giảm so với tháng 8/2023; vùng nuôi của Quảng Ninh vẫn ở mức cao và tăng so với tháng 8/2023. Ở vùng nuôi của Hải Phòng đều ghi nhận Vibrio tổng số nằm trong ngưỡng cho phép (< 1.000CFU/ml); ở Quảng Ninh, có 7/12 mẫu (tỷ lệ 58,3%) vượt ngưỡng cho phép, tập trung ở hòn Ông Cụ, hòn Bọ Cắn, Béo Cò, Soi Nhụ và khu Thắng Lợi; ở vùng Kiên Giang có 4/11 mẫu vượt ngưỡng (tỷ lệ 36,5%), tập trung ở Hòn Tre, Hòn Nhum, Đảo Hải Tặc. Mật độ Coliform cũng khá cao, có 9/33 mẫu có mật độ vượt GHCP (< 1.000CFU/100ml), các khu vực có mật độ Coliform cao cũng tương đồng với những khu vực có mật độ Vibrio tổng số cao.

Chỉ số chất lượng nước (WQI) các vùng nuôi biển được quan trắc ở mức trung bình đến rất tốt. Khu vực nuôi ở Hòn Ông Cụ và Thắng Lợi của Quảng Ninh; Hòn Tre và Hòn Nhum của Kiên Giang tiếp tục ở mức chất lượng trung bình, đây là những khu vực cần được tăng cường quản lý và theo dõi môi trường vùng nuôi. Tuy hầu hết các khu vực nuôi khác ở mức chất lượng tốt, nhưng giá trị WQI của khu vực Hòn Bọ Cắn, Béo Cò (Quảng Ninh), Đảo Hải Tặc và Hòn Heo (Kiên Giang) cũng ở mức khá thấp, gần đạt sang mức chất lượng trung bình.

Vùng nuôi cá rô phi, cá nuôi lồng khu vực phía Bắc

Các thông số nhiệt độ, pH, DO, S2-, Streptococcus tổng số có giá trị nằm trong khoảng giới hạn cho phép. Hàm lượng N-NH4+ dao động từ 0,05 – 1,79 mg/L, có 9,09 mẫu vượt ngưỡng giới hạn theo QCVN 02-22:2015/BNNPTNT. Hàm lượng N-NO2- dao động từ 0 – 0,382 mg/l, có 36,36 % mẫu có có gái trị cao hơn từ 1,7 – 7,6 lần so với giới hạn cho phép (0,05 mg/l). Hàm lượng P-PO43- dao động từ 0 – 0,107 mg/L, trong đó mãu thu tại vùng nuôi Phúc Ninh – Yên Bái cao hơn 1,1 lần so với giới hạn. COD dao động từ 0 – 18,4 mg/l, trong ao nuôi cá rô phi tại Nam Sách – Hải Dương cao hơn từ 1,4 – 1,8 lần so với ngưỡng giới hạn theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT (<10 mg/l). Mật độ Coliform trong nước dao động từ 0 – 94.000 cfu/100ml, có 90,91 % mẫu vượt ngưỡng giới hạn từ 1,1 – 37,6 lần so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Mật độ TVPD (Chlorophyll a) dao động từ 5,16 – 416,58 µg/L, trong đó ao nuôi cá rô phi có giá trị dao động từ 269,63 – 416,58 µg/l, cao hơn ngưỡng phù hợp cho ao nuôi cá nước ngọt (<200µg/l). Không phát hiện vi khuẩn gây bệnh và TiLV trên mẫu cá rô phi thu tại vùng quan trắc.

 Chỉ số WQI nước vùng nuôi cá lồng, rô phi có 3/11 mẫu đạt chất lượng tốt đến rất tốt, 8/11 mẫu ở mức trung bình đến xấu. So với kết quả quan trắc cùng kỳ năm 2022 thì môi trường vùng nuôi cá lồng và rô phi tháng 09/2023 có giá trị tương đương

Một số khuyến cáo

Sau khi có kết quả quan trắc, Cục Thuỷ sản gửi thông báo kết quả quan trắc đến Chi cục Thuỷ sản/Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thuỷ sản, phòng nông nghiệp huyện, các doanh nghiệp và cơ sở nuôi trồng thuỷ sản bằng hình thức email, EMS, zalo… để triển khai ngay các biện pháp ổn định môi trường vùng nuôi; cập nhập số liệu quan trắc vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường. Đồng thời, có văn bản hướng dẫn tăng cường quản lý, phòng bệnh trong sản xuất tôm nước lợ; đăng tải trên Website của Cục Thuỷ sản, Báo Nông nghiệp Việt Nam.

Cục Thuỷ sản đề nghị các địa phương, trên cơ sở kết quả quan trắc môi trường tại thông báo này, cùng với kết quả quan trắc môi trường nuôi trồng thuỷ sản của địa phương đã chuyển tải đến người nuôi để đưa ra các giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển nuôi trồng thuỷ sản hiệu quả, bền vững.

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác