Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo Cục Thủy sản và các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Thú y, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh, Chi cục Thủy sản các tỉnh/thành phố, các Viện, trường, chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cùng với các phóng viên báo chí đến đưa tin về Hội nghị.
Cục trưởng Cục Thủy sản, ông Trần Đình Luân và ông Ngô Tất Thắng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh đã chủ trì Hội nghị.
Trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày càng khó lường cùng với việc phát triển kinh tế đã làm cho môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng ngày càng ô nhiễm, khó kiểm soát. Trong nuôi trồng thủy sản, việc kiểm soát được chất lượng nguồn nước đóng vai trò rất quan trọng dẫn đến thành công hay thất bại của vụ mùa sản xuất. Do vậy quan trắc môi trường trong nuôi trồng thủy sản đóng vai trò cực kỳ quan trọng để nuôi trồng thủy sản hiệu quả, giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh, đảm bảo sự phát triển bền vững. Trong những năm qua, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản) và các địa phương đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tiến hành công tác quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trên toàn quốc, kết quả quan trắc môi trường đã kịp thời được phân tích, đánh giá nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo sản xuất NTTS; đồng thời đảm bảo yêu cầu xuất khẩu. Từ đó đưa ra các cảnh báo tới người nuôi để có những giải pháp nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại gây ra cho các đối tượng nuôi trồng thủy sản.
|
Báo cáo tại Hội nghị, Cục Thủy sản cho biết, hiện đã ban hành QĐ số 513/QĐ-TCTS-NTTS ngày 28/12/2021 về việc hướng dẫn quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường giai đoạn 2021-2030 đến nay đã có 56/63 tỉnh/thành phố xây dựng kế hoạch quan trắc môi trường hằng năm. Trong năm 2021-2021, cả nước đã tiến hành trên 992 điểm quan trắc môi trường, cụ thể: vùng nuôi tôm (460 điểm); vùng nuôi cá tra (140 điểm); vùng nuôi nhuyễn thể (71 điểm); vùng nuôi cá rô phi/cá lồng bè (239 điểm); vùng nuôi tôm hùm (59 điểm); vùng nuôi cá biển (23 điểm). Đối với nhiệm vụ quan trắc môi trường do Cục Thuỷ sản phối hợp với các Viện và TT triển khai thực hiện đã chuyển tải được: 498 bản tin (tôm 160, cá tra 68, nhuyễn thể 44, cá lồng bè và cá rô phi 78, tôm hùm 64, cá biển 84). Dựa trên kết quản quan trắc đã ban hành trên 30 văn bản chỉ đạo tăng cường quản lý NTTS trên các đối tượng tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể… cùng các công văn cảnh báo diễn biến môi trường các vùng nuôi , giải pháp quản lý tốt môi trường nuôi thời điểm nắng nóng, giao mùa, bão lũ.
Hiện Cục Thủy sản cũng đang hoàn thiện các TC, QC về chất lượng môi trường nuôi thuỷ sản, môi trường nước đối với các đối tượng nuôi thủy sản.
Phát biểu tại Hội nghị, TS Lê Hồng Phước, Viện Nghiên cứu NTTS II, qua kết quả quan trắc vùng nuôi tôm nước lợ; Vùng nuôi nuôi cá tra; Vùng nuôi nhuyễn thể và giám sát tại các ao nuôi đã đưa ra một số khuyến cáo: Thứ nhất, các ao nuôi sử dụng nguồn nước cấp thuộc các điểm quan trắc có hiện diện của vi khuẩn cơ hội có khả năng gây bệnh trên vật nuôi thủy sản cần diệt khuẩn kỹ trước khi cấp nước vào ao nuôi. Thứ hai, các ao nuôi có hiện tượng ô nhiễm hữu cơ cần xử lý vi sinh/ chế phẩm sinh học để giảm thiểu các chất hữu cơ dư thừa trong ao nuôi, cải thiện chất lượng nước. Thứ ba, hạn chế thả giống mới, vận chuyển, san thưa trong thời điểm giao mùa. Thứ tư, người nuôi nên thường xuyên kiểm tra các yếu tố thủy lý hóa nước ao và biểu hiện hoạt động của tôm nuôi, định kỳ bổ sung men tiêu hóa, vi lượng, khoáng chất, vitamin để tăng sức đề kháng. Thứ năm, trước, trong và sau những cơn mưa lớn đầu mùa cần sục khí cung cấp thêm oxy cho ao/bè nuôi….
Cần mở rộng số điểm quan trắc cũng như tần suất quan trắc
Về mặt quản lý nhà nước liên quan đến công tác quan trắc môi trường, TS Lê Hồng Phước cho rằng; cần xây dựng và ban hành hướng dẫn đánh giá chất lượng nước cho vùng NTTS; Xây dựng TCVN các thông số môi trường nước, trầm tích phù hợp với NTTS đê áp dụng đánh giá môi trường sát thực hơn với đối tượng và loại hình nuôi; Cần mở rộng số điểm quan trắc cũng như tần suất quan trắc phục vụ chỉ đạo sản xuất và phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản bền vững. Đối với các vùng nuôi tôm và cá tra cần có quy hoạch cụ thể vùng nuôi, đầu tư hệ thống điện cũng như hệ thống thủy lợi để đảm bảo cho việc cấp thoát nước đạt chất lượng giảm thiểu ô nhiễm, tránh lây lan mầm bệnh giữa các ao hay vùng nuôi.
Một số đại biểu tham dự Hội nghị cho rằng, việc áp dụng đánh giá chỉ số chất lượng lượng (WQI) cho các vùng nuôi trồng thủy sản gặp khó khăn, vẫn đánh giá chung trên nền nước sinh hoạt. Các quy định về chất lượng nước cấp, nước thải nuôi trồng thủy sản chưa đồng bộ và đầy đủ cho các đối tượng thủy sản nuôi.
Mặt khác, về hệ thống cơ sở dữ liệu điểm, tần suất quan trắc còn mỏng dẫn đến giá trị dữ liệu đơn lẻ, không liên tục. Cảnh báo về tình trạng ô nhiễm chất lượng môi trường tại một số thời điểm chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo sản xuất.
Kết luận hội nghị, Ông Trần Đình Luân cho rằng trong những năm qua công tác quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường đã được thực hiện kịp thời đầy đủ qua đó đóng góp rất lớn vào thành công chung của ngành thủy sản không những hạn chế được những thiệt hại rũi ro do yếu tố môi trường, chất lượng nước gây ra cho nuôi trồng thủy sản mà còn góp phần vào phân tích các chỉ tiêu đánh giá giám sát môi trường phục vụ yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
Tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến của thời tiết
Tuy nhiên, do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, diễn biến thời tiết khó lường và phát triển kinh tế đã gây áp lực lên sức tải môi trường làm ô nhiễm môi trường, nguồn nước và gây thiệt hại không nhỏ cho nuôi trồng thủy sản hàng năm. Trước mắt, từ nay đến cuối năm đề nghị các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến của thời tiết, cập nhật báo cáo kịp thời các chỉ số liên quan đến môi trường và có những khuyến cáo đối với người nuôi được biết để tránh những rũi ro thiệt hại do môi trường, thời tiết gây ra. Đặc biệt, trong thời điểm nắng nóng gay gắt như hiện nay.
Bộ Nông nghiệp và PTNT, Cục Thủy sản và các địa phương, các Viện, trường nghiên cứu cần tiếp tục phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị liên quan rà soát và đề xuất xây dựng/sửa đổi các văn bản liên quan đến môi trường NTTS đảm bảo tính đặc thù chuyên ngành (QC về chất lượng nước thải trong NTTS,…). Xây dựng, ban hành các quy định, hướng dẫn kỹ thuật về chủ động phòng ngừa, kiểm soát nguồn thải trong các hoạt động NTTS có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao; quy trình hướng dẫn xử lý khi xảy ra sự cố môi trường, thuỷ sản chết hàng loạt…
Chủ động phòng ngừa, kiểm soát nguồn ô nhiễm, chất thải từ các hoạt động NTTS; Tăng cường quan trắc môi trường trong NTTS; ứng dụng công nghệ 4.0 trong QTMT. Trong đó Điều tra, đánh giá tổng thể nguồn thải, lượng thải trong các hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản; đánh giá sức tải môi trường tại một số vùng nuôi thuỷ sản lồng bè (tôm hùm…).
Đánh giá mối tương quan giữa chất lượng nước môi trường vùng nuôi và nguồn thải; mối tương quan môi trường và bệnh.
Thực hiện QTMT thường xuyên tại các vùng nuôi trọng điểm cho các đối tượng nuôi chủ lực (tăng thời gian, tần suất quan trắc vào thời điểm giao mùa, mưa bão, nắng nóng); thí điểm ứng dụng công nghệ 4.0 trong QTMT…Duy trì và nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường NTTS và tích hợp vào cơ sở dữ liệu về bệnh thuỷ sản để thống nhất việc truyền tải cơ sở dữ liệu.
Xây dựng năng lực phòng ngừa, cảnh báo nguy cơ sự cố môi trường; Thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong sản xuất NTTS và Nâng cao năng lực, tuyên truyền nhận thức bảo vệ môi trường trong NTTS.
Đối với các tỉnh chưa phê duyệt kế hoạch quan trắc môi trường, đề nghị khẩn trương trình UBND tỉnh phê duyệt để triển khai thực hiện. Phối hợp với các đơn vị quan trắc chuyển tải các bản tin thông báo tới vùng nuôi, người nuôi kịp thời, hiệu quả thông qua nhiều hình thức; đồng thời thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các khuyến cáo tại các bản tin.
Văn Thọ