Kết quả quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường nước vùng nuôi tôm hùm, nuôi cá nước lạnh, cá biển, cá rô phi và nuôi lồng bè nước ngọt tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước (24-08-2023)

Triển khai thực hiện Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) giai đoạn từ năm 2021-2025, Cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và chỉ đạo Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định NTTS tiến hành quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng NTTS với 172 điểm quan trắc trên tôm hùm, cá nước lạnh, cá biển, cá rô phi và nuôi lồng bè nước ngọt tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Kết quả quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường nước vùng nuôi tôm hùm, nuôi cá nước lạnh, cá biển, cá rô phi và nuôi lồng bè nước ngọt tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước
Ảnh minh họa

Vùng nuôi tôm hùm 

Có 5/12 thông số quan trắc định kỳ nằm ngoài GHCP, chiếm 41,7% (nhiệt độ, DO, N-NH4+, P-PO43-,Vibrio spp.), tương đương so với cùng kỳ năm 2022 (DO, N-NH4+, P-PO43-, coliforms, Vibrio spp.). Trong đó, nhiệt độ có 7/42 mẫu vượt GHCP, chiếm 16,7%, tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2022 (0,0%); DO có 11/42 mẫu thấp dưới ngưỡng, chiếm 26,2%, tăng so với cùng kỳ (23,8%); N-NH4+ có 9/42 mẫu vượt ngưỡng, chiếm 21,4%, tăng so với cùng kỳ (19,0%); P-PO43- có 1/42 mẫu vượt,  ngưỡng, chiếm 2,5%; Vibrio spp. có 26/42 mẫu vượt ngưỡng, chiếm 61,9%, tăng gấp 2,0 lần so với cùng kỳ (31,0 %). Thông số nhiệt độ, DO, N-NH4+ nằm ngoài ngưỡng giới hạn xảy ra chủ yếu ở các vùng nuôi thuộc vịnh Xuân Đài và rải rác ở Xuân Tự, Trí Nguyên, Bình Ba; Vibrio spp. vượt giới hạn cho phép ở hầu hết các khu nuôi tôm hùm.

 Chỉ số đánh giá chất lượng môi trường nước (WQI) vùng nuôi tôm hùm quan trắc đợt 19, 20 trong tháng 7/2023 hầu hết đều ở mức tốt đến rất tốt (VN-WQI=83-96), ngoại trừ vùng nuôi Xuân Yên (Phú Yên) ở mức trung bình cả hai đợt quan trắc (VN-WQI=57-68). Chất lượng môi trường nước các vùng nuôi tôm hùm có cải thiện đáng kể, đặc biệt ở Xuân Phương, Xuân Yên so với cùng kỳ năm 2022 (WQI=45).

Vùng nuôi cá nước lạnh khu vực Tây Nguyên

Có 4/12 thông số quan trắc định kỳ nằm ngoài GHCP, chiếm 33,3%, tăng 02 thông số (DO, P-PO43-) so với đợt quan trắc trước (tháng 6), gồm: nhiệt độ, DO, N-NH4+ và P-PO43-. Trong đó, P-PO43-, vượt GHCP 1,3 lần tại Klong Klanh (Lạc Dương); nhiệt độ cao, DO thấp, N-NH4+ và P-PO43-, cùng vượt 1,2 lần tại hồ Tuyền Lâm (TP. Đà Lạt).

Phát hiện tảo Peridinium sp. tại Klong Klanh, tảo Peridinium sp. Ceratium sp. tại hồ Tuyền Lâm với mật độ thấp chưa ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước và cá nuôi.

Vùng nuôi cá biển

Kết quả quan trắc môi trường vùng nuôi biển ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Kiên Giang trong tháng 7/2023, cho thấy độ muối giảm, nhiệt độ, độ đục, TSS tăng cao ở cả 3 tình/thành phố có nuôi biển được quan trắc, cục bộ có sự thiếu hụt DO ở vùng nuôi của Hải Phòng. Hàm lượng N-NH4+ tăng cao, nhiều điểm có hàm lượng vượt GHCP, ở vùng Quảng Ninh với tỷ lệ mẫu vượt GHCP đạt 62,5%, Kiên Giang với tỷ lệ 68,2%, đặc biệt là vùng nuôi của Hải Phòng với tỷ lệ 85,0%.

Nhìn chung, hàm lượng N-NO2- và P-PO43- có xu hướng tăng, đặc biệt ghi nhận có 4/22 mẫu ở Kiên Giang có hàm lượng N-NO2- vượt ngưỡng cho phép (< 0,05mg/l). Hàm lượng COD ghi nhận có 12/66 mẫu ghi nhận vượt ngưỡng khuyến cáo. Hàm lượng dầu đều nằm trong khoảng GHCP. So với đợt quan trắc tháng 3, 4, 5, 6/2023, kết quả quan trắc trong tháng 7 năm 2023 ghi nhận tỷ lệ số mẫu có hàm lượng vượt khoảng GHCP cao hơn, khoảng biến động của các các thông số thể hiện chịu ảnh hưởng chung của vùng biển ven bờ, có nhiều bất lợi với cá nuôi lồng bè

Quần xã TVPD hầu hết ở mức đa dạng khá phong phú, chỉ số cân bằng J ở mức kém bền vững (Quảng Ninh) đến khá bền vững (Hải Phòng, Kiên Giang). Quần xã TVPD ở mức đa dạng kém đến khá phong phú, đa số chỉ số Dv ở mức đa dạng trung bình; chỉ số cân bằng J ở mức kém bền vững, nhất là vùng nuôi của Hải Phòng. Chỉ số H’ khá thấp, chất lượng môi trường nước chủ yếu ở mức ô nhiễm trung bình dạng α, ngoại trừ vùng nuôi ở Hòn Sơn và Nam Du (Kiên Giang) ở mức ô nhiễm trung bình dạng β.. Kết quả quan trắc tảo độc hại ghi nhận mật độ ở vùng nuôi của Cẩm Phả (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) tăng rất cao, trên 1 triệu tb/l; tuy nhiên, chủ yếu là các loài tảo gây hại (Chaetoceros pseudocurvisetus). Kết quả quan trắc ghi nhận tảo độc Pseudonitzschia spp. nhưng với mật độ thấp (< 300.000tb/l). Mật độ TVPD và tảo độc hại có xu hướng tăng, các chỉ số sinh học H’, J, Dv của quần xã TVPD giảm sovới tháng 3, 4, 5, 6/2023, thể hiện xu hướng biến đổi bất lợi của môi trường vùng nuôi trong mùa mưa.

Mật độ Vibrio tổng số ở cả 3 vùng nuôi của Quảng Ninh, Hải Phòng và Kiên Giang vẫn ở mức cao, nhiều điểm/khu vực nuôi vẫn ghi nhận mật độ cao và vượt ngưỡng đề xuất phù hợp với NTTS (< 1000CFU/ml). Ở vùng nuôi của Hải Phòng có 8/10 mẫu (đạt tỷ lệ 80,0%) vượt ngưỡng, chủ yếu ở vùng Hang Vẹm - Vụng O; ở Quảng Ninh, có 5/12 mẫu (tỷ lệ 41,7%), tập trung ở hòn Ông Cụ, hòn Bọ Cắn và khu Thắng Lợi; ở vùng Kiên Giang có 5/11 mẫu vượt ngưỡng (tỷ lệ 45,5%), tập trung ở Hòn Tre, Hòn Nhum và Hòn Heo. Mật độ Coliform ở một số khu vực nuôi cũng khá cao, có 13/33 mẫu có mật độ vượt GHCP (< 1000CFU/100ml), các khu vực có mật độ Coliform cao cũng tương đồng với những khu vực có mật độ Vibrio tổng số cao.

 Chỉ số đánh giá chất lượng nước (WQI) các vùng nuôi biển tháng 7/2023 được quan trắc ở mức trung bình đến rất tốt. Khu vực nuôi ở Cát Bà - Hải Phòng; khu Hòn Ông Cụ và Thắng Lợi của Quảng Ninh; Hòn Tre và Hòn Nhum của Kiên Giang ở mức chất lượng trung bình, đây là những khu vực cần được tăng cường quản lý và theo dõi môi trường vùng nuôi. Tuy hầu hết các khu vực nuôi khác ở mức chất lượng tốt, nhưng giá trị WQI của khu vực Hòn Bọ Cắn (Quảng Ninh) và Hòn Heo (Kiên Giang) cũng ở mức khá thấp, gần đạt sang mức chất lượng trung bình.

Vùng nuôi cá rô phi, cá nuôi lồng khu vực phía Bắc

Các thông số nhiệt độ, pH, DO, P-PO43-, S2-, Streptococcus tổng số có giá trị nằm trong khoảng giới hạn cho phép. Hàm lượng N-NH4+ dao động từ 0 – 1,859 mg/l, trong đó nước vùng nuôi cá rô phi tại Hải Dương có giá trị cao hơn từ 1,86 lần so với ngưỡng giới hạn theo QCVN 02-22:2015/BNNPTNT (<1,0 mg/l). Hàm lượng N-NO2- dao động từ 0,012 – 0,869 mg/l, có 45,45 % mẫu có có gái trị cao hơn từ 1,1 – 17,4 lần so với giới hạn cho phép (0,05 mg/l). Chỉ số COD dao động từ 3,2 – 18,4 mg/l, trong ao nuôi cá rô phi tại Nam Sách – Hải Dương cao hơn từ 1,8 lần so với ngưỡng giới hạn theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT (<10 mg/l). Mật độ Coliform trong nước dao động từ 4.000 – 100.000 cfu/100ml, có 100 % mẫu vượt ngưỡng giới hạn từ 1,6 – 40 lần so với QCVN 08-MT: 2015/BTNMT. Mật độ TVPD (Chlorophyll a) dao động từ 9,53 – 528,95 µg/L, trong đó ao nuôi cá rô phi có giá trị dao động từ 411,56 – 528,96 µg/l, cao hơn ngưỡng phù hợp cho ao nuôi cá nước ngọt (<200µg/l). Không phát hiện vi vi rút TiLV và vi khuẩn gây bệnh trên mẫu cá rô phi thu tại vùng quan trắc.

 Chỉ số đánh giá chất lượng nước (WQI) tháng 7 năm 2023 có 3/11 mẫu đạt chất lượng tốt đến rất tốt, 8/11 mẫu ở mức trung bình đến xấu. So với kết quả quan trắc cùng kỳ năm 2022 thì môi trường vùng nuôi cá lồng và rô phi có giá trị tốt hơn.

Trong tháng 7 năm 2023, trên cơ sở kết quả quan trắc Cục Thuỷ sản phối hợp với các đơn vị ban hành công văn về việc chủ động ứng phó với nắng nóng, mưa bão, áp thấp nhiệt đới, lũ trong NTTS năm 2023; đăng tải trên Website của Cục Thuỷ sản, Báo Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; chuyển tải kết quả quan trắc môi trường NTTS của địa phương đến người nuôi để đưa ra các giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển NTTS hiệu quả, bền vững; cập nhập kết quả quan trắc môi trường vào cơ sở dữ liệu quan trắc môi trường

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác