Tài nguyên nước đối với sự phát triển bền vững ngành Thủy sản Việt Nam (28-04-2025)

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và nhu cầu sử dụng nước tăng cao, việc quản lý tài nguyên nước thông minh không chỉ là giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn là chìa khóa đảm bảo sự phát triển bền vững ngành Thủy sản.
Tài nguyên nước đối với sự phát triển bền vững ngành Thủy sản Việt Nam
Ảnh minh hoạ

Ngày 27 tháng 12 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Nước là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là thành phần cơ bản của hệ sinh thái tự nhiên, liên quan đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Tài nguyên nước phải được quản lý, sử dụng, phát triển bền vững, tổng hợp, thống nhất theo lưu vực sông, liên vùng, liên tỉnh; mọi nhu cầu sử dụng nước phải phù hợp với chức năng và khả năng đáp ứng của nguồn nước, nhằm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, hợp lý, đa mục tiêu, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái thủy sinh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Bảo vệ tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng, nâng cao khả năng tích trữ nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm...

Việt Nam sẽ hạn chế và tiến tới việc cấm sử dụng các loại hoá chất độc hại trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm nguồn nước. Tăng cường việc quản lý hoạt động xả nước thải vào nguồn nước và đầu tư xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải. Ban hành các quy định về quản lý việc sử dụng các loại hoá chất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Tại lưu vực sông Cửu Long, kiểm soát chặt chẽ việc khai thác nước dưới đất cho tưới, nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là khu vực ven biển các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau); hạn chế khai thác nước dưới đất ở những khu vực sụt lún, xâm nhập mặn hoặc có nguy cơ sụt lún, xâm nhập mặn. Kiểm soát và tiến tới giảm thiểu lượng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng, chế biến thủy sản; quản lý, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt, công nghiệp…

Ngày 06 tháng 02 năm 2024, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện “Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý, sử dụng các loại hóa chất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản để giảm thiểu việc gây ô nhiễm nguồn nước; Rà soát, bổ sung chính sách về thuế, phí liên quan đến tài nguyên nước; xây dựng cơ chế chính sách chia sẻ, phân bổ nguồn thu từ khai thác sử dụng tài nguyên nước.

Trước đó, ngày 27 tháng 11 năm 2023, Quốc hội đã ban hành Luật Tài nguyên nước. Trong đó, Điều 27 có quy định việc bảo vệ chất lượng nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản: Các tổ chức/cá nhân sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y thủy sản, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản và các loại hóa chất khác trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật, không được gây ô nhiễm nguồn nước. Điều 41 quy định việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản phải tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Luật này. 

Điều 46 quy định việc khai thác tài nguyên nước cho sản xuất nuôi trồng thủy sản: Các tổ chức/cá nhân khai thác tài nguyên nước cho nuôi trồng thủy sản không được gây suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước, cản trở dòng chảy, hư hại công trình trên sông, gây trở ngại cho giao thông thủy và không được gây nhiễm mặn nguồn nước. Việc nuôi trồng thủy sản trên lòng hồ không được gây ảnh hưởng đến an toàn đập, hồ chứa, chất lượng nguồn nước, nhiệm vụ phòng, chống lũ, cấp nước cho hạ du của đập, hồ chứa. Ngoài ra, Luật Tài nguyên nước còn quy định việc sử dụng mặt nước sông, suối, kênh, mương, rạch để nuôi trồng thủy sản phải bảo đảm không gây ô nhiễm nguồn nước, cản trở dòng chảy, hư hại lòng, bờ, bãi sông, suối, kênh, mương, rạch và ảnh hưởng đến các hoạt động khai thác, sử dụng nước khác.

Về việc phòng, chống xâm nhập mặn, Điều 64 quy định các tổ chức/cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản phải có biện pháp phòng, chống nhiễm mặn nguồn nước.

Đặc biệt Điều 69 quy định rõ về “Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước”; theo đó, các tổ chức/cá nhân khai thác tài nguyên nước thuộc trường hợp phải cấp phép khai thác nước mặt, nước dưới đất phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong các trường hợp sau: Khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản... Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nước không phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong các trường hợp sau đây: (i) Khai thác nước biển; (ii) Khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, ngăn mặn, chống ngập… quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 52 của Luật này.

Xây dựng "Lộ trình Nước quốc gia" để hiện thực hóa Mục tiêu Phát triển Bền vững

Theo Báo Chính phủ, nông nghiệp chiếm tới 70% lượng nước ngọt sử dụng trên toàn cầu, nhưng nguồn nước này không phải là vô hạn. Tại Việt Nam, nước là yếu tố đầu vào thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp và thủy sản, đặc biệt trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với các dạng khan hiếm nước khác nhau: thiếu nước, dư thừa nước do lũ lụt, chất lượng nước kém và tình trạng khai thác quá mức. Trong khi đó, tài nguyên nước là yếu tố sống còn đối với sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản – hai lĩnh vực chủ chốt đóng góp lớn vào nền kinh tế Việt Nam.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và nhu cầu sử dụng nước gia tăng, quản lý bền vững tài nguyên nước không chỉ là giải pháp để đảm bảo an ninh lương thực mà còn là động lực thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp và phát triển bền vững ngành Thủy sản. Những nỗ lực gần đây của Việt Nam, từ chính sách quản lý tổng hợp đến ứng dụng khoa học công nghệ, đang cho thấy tiềm năng lớn trong việc tối ưu hóa tài nguyên nước, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững hơn.

Việt Nam đã xây dựng hệ thống công trình hạ tầng nguồn nước và hệ thống pháp luật cơ bản để quản lý, khai thác và tận dụng tối đa tài nguyên nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phòng chống lũ lụt và các tác hại do nước gây ra. Tháng 6/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045, đặt nền móng cho các chiến lược dài hạn về thủy lợi, lưu trữ nguồn nước và cung cấp nước sạch. Hiện các chương trình hành động về an ninh nguồn nước đã vạch ra chiến lược cụ thể để quản lý tài nguyên nước trong tương lai.

Ông Rémi Nono Womdim, Trưởng Đại diện FAO tại Việt Nam, đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. FAO đang hợp tác với Việt Nam và các quốc gia khác để thực hiện Chương trình Nghị sự Hành động vì Nước của Liên hợp quốc, tập trung vào xây dựng "Lộ trình Nước quốc gia" để quản lý rủi ro hạn hán, giám sát dữ liệu nước và số liệu bốc thoát hơi nước. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước bền vững là ưu tiên hàng đầu để hiện thực hóa các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs).

FAO đề xuất 5 lĩnh vực hành động để tăng cường quản lý tài nguyên nước: đầu tư nâng cao năng lực kiểm kê tài nguyên nước; gắn kiểm kê với phân bổ nguồn nước một cách công bằng, minh bạch; thúc đẩy hợp tác liên ngành thông qua chính sách pháp lý và công nghệ tiên tiến để hỗ trợ nông dân; triển khai các biện pháp bảo trợ xã hội cho các nhóm dễ bị tổn thương; huy động khu vực tư nhân tham gia giảm phát thải trên toàn chuỗi cung ứng. FAO cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc chuyển đổi các hệ thống lương thực và thực phẩm, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.

Tài nguyên nước giúp các ngành kinh tế nông nghiệp phát triển

Tài nguyên nước là yếu tố đầu vào thiết yếu trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt với ngành Thủy sản – lĩnh vực đang đóng góp lớn vào mục tiêu xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 65-70 tỷ USD trong năm 2025. Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động cực đoan, từ sụt lún đất do mưa lớn đến thiếu nước nghiêm trọng trong mùa khô hạn kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất thủy sản. Do đó, việc quản lý bền vững tài nguyên nước trở thành nhiệm vụ cấp bách để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành.

Tại khu vực ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vùng trọng điểm nuôi trồng thủy sản của cả nước, Viện Khoa học Tài nguyên nước đã ứng dụng công nghệ viễn thám để lập bản đồ các vùng nuôi trồng và tính toán nhu cầu dùng nước cho thủy sản tại các tỉnh ĐBSCL. Đặc biệt, đã xây dựng công cụ phục vụ tính toán thiệt hại do hạn hán và xâm nhập mặn, làm cơ sở cho các giải pháp trữ nước cấp cho các đối tượng sử dụng vào mùa khô, nhất là trong những năm khô hạn nghiêm trọng. Các nghiên cứu này không chỉ giúp tối ưu hóa quản lý nguồn nước mà còn giảm thiểu rủi ro cho ngành Thủy sản.

Ngoài ra, Viện Khoa học Tài nguyên nước cũng tiến hành nghiên cứu về chính sách quản lý và giải pháp sử dụng tuần hoàn tài nguyên nước trong nông nghiệp, tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo về tăng cường hiệu quả sử dụng nước và bảo vệ môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản (nhất là các mô hình nuôi công nghiệp). Một số hướng nghiên cứu mới liên quan đến phát triển thủy sản trên sông và hồ chứa; dự kiến tập trung vào các chính sách chi trả dịch vụ môi trường nước, ứng dụng công nghệ IoT và AI trong quan trắc tự động để giám sát số lượng và chất lượng nước, từ đó hỗ trợ đánh giá rủi ro và xây dựng hệ thống ra quyết định. Các công nghệ này cũng sẽ được sử dụng để tối ưu hóa quy trình tuần hoàn và tái sử dụng nước trong nuôi trồng thủy sản, giảm áp lực lên nguồn tài nguyên nước tự nhiên.

Cùng với đó, Viện Khoa học Tài nguyên nước sẽ ứng dụng công nghệ RS (viễn thám) và GIS (hệ thống thông tin địa lý) để đánh giá rủi ro tài nguyên nước liên quan đến lũ lụt, hạn hán và xâm nhập mặn – những vấn đề đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất thủy sản, đặc biệt tại các khu vực như ĐBSCL. Những nghiên cứu này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng nước mà còn góp phần bảo vệ môi trường nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành Thủy sản.

Bên cạnh các giải pháp công nghệ và hợp tác quốc tế, các hoạt động cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ tài nguyên nước. Các chương trình ra quân tình nguyện bảo vệ nguồn nước tại các công trình thủy lợi đã được triển khai trên cả nước, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về quản lý nước bền vững. Những sáng kiến như sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt, thu gom nước mưa và bảo tồn vùng đất ngập nước cũng đang được khuyến khích để giảm áp lực lên nguồn nước.

Luật Tài nguyên nước chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2024, đã chuyển từ quản lý nước bằng công cụ hành chính sang quản lý dựa trên công cụ kinh tế, nhằm thúc đẩy sử dụng nước hiệu quả và bền vững. Chính sách này, cùng với các chương trình kiểm kê và phân bổ nguồn nước, là nền tảng để Việt Nam đảm bảo an ninh nguồn nước trong dài hạn. Các tổ chức/cá nhân thuộc trường hợp quy định tại điểm e và g khoản 5 Điều 52 của Luật Tài nguyên nước có hồ, ao, kênh, mương, rạch để tạo không gian thu, trữ nước, dẫn nước, tạo cảnh quan và sử dụng mặt nước sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ chứa để nuôi trồng thủy sản, kinh doanh, dịch vụ trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì phải hoàn thành thủ tục đăng ký sử dụng tài nguyên nước theo quy định của Luật này chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2026.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác