Xuất khẩu NLTS duy trì đà tăng trưởng
Theo Cục Chuyển đổi số, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS tháng 9 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 6,35 tỷ USD, tăng 11,8% so với tháng 9 năm 2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 9 tháng đầu năm 2025 ước đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong cơ cấu, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 28,51 tỷ USD, tăng 16,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 447,5 triệu USD, tăng 18,6%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 8,12 tỷ USD, tăng 12,3%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 13,41 tỷ USD, tăng 7,4%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,82 tỷ USD, tăng 33,1%; giá trị xuất khẩu muối đạt 8 triệu USD, tăng 96,3%.
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất trong các mặt hàng NLTS của Việt Nam với thị phần chiếm 43,9%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23% và 14,2%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3% và 1,3%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 4,1%; châu Mỹ tăng 11,4%; châu Âu tăng 40,6%; châu Phi tăng 91,6%; và châu Đại Dương tăng 6,5%.
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là ba thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm lần lượt 20,6%, 20% và 7,1% thị phần. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 9%, Trung Quốc tăng 5,9%, và Nhật Bản tăng 23,9%.
Nhiều mặt hàng chủ lực ghi nhận mức tăng trưởng mạnh trong 9 tháng đầu năm 2025. Cà phê là điểm sáng khi khối lượng xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2025 đạt 1,2 triệu tấn và 6,98 tỷ USD, tăng 11,1% về khối lượng và tăng 61,4% về giá trị so với cùng kỳ. Giá cà phê xuất khẩu bình quân ước đạt 5658,5 USD/tấn, tăng 45,3% so với cùng kỳ. Cao su khối lượng xuất khẩu ước đạt 1,3 triệu tấn với giá trị đạt 2,32 tỷ USD, không thay đổi về khối lượng nhưng tăng 10,8% về giá trị so với cùng kỳ.
Gạo với khối lượng xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2025 đạt 7 triệu tấn và 3,55 tỷ USD, tăng 0,1% về khối lượng nhưng giảm 18,5% về giá trị so với cùng kỳ. Giá trị xuất khẩu hàng rau đạt 6,22 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm gần 58%.
Hạt điều khối lượng xuất khẩu đạt 552,3 nghìn tấn và 3,75 tỷ USD, tăng 1,2% về khối lượng và tăng 18,9% về giá trị so với cùng kỳ. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân ước đạt 6796,2 USD/tấn, tăng 17,5% so với cùng kỳ.
Riêng về mặt hàng thuỷ sản, giá trị xuất khẩu trong tháng 9 năm 2025 ước đạt 960 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 9 tháng đầu năm 2025 đạt 8,12 tỷ USD, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 19,8%, 17,3% và 15,2%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 8 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Trung Quốc tăng 39,9%, thị trường Hoa Kỳ tăng 6,2%, thị trường Nhật Bản tăng 11,1%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Braxin với mức tăng 51,7% và giảm mạnh nhất ở thị trường Nga với mức giảm 3,5%.
Nhập khẩu 9 tháng đạt trên 36 tỷ USD
Cũng theo Cục Chuyển đổi số, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch nhập khẩu NLTS tháng 9 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 3,95 tỷ USD, tăng 7% so với tháng 9 năm 2024; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS 9 tháng đầu năm 2025 đạt 36,38 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản đạt 22,38 tỷ USD, tăng 11,5%; giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 3,3 tỷ USD, tăng 22,1%; giá trị nhập khẩu thủy sản đạt 2,37 tỷ USD, tăng 27,2%; giá trị nhập khẩu lâm sản đạt 2,4 tỷ USD, tăng 16,2%; giá trị nhập khẩu đầu vào sản xuất đạt 5,9 tỷ USD, tăng 5,4%; giá trị nhập khẩu muối đạt 25,7 triệu USD, tăng 0,6%.
Xét theo vùng lãnh thổ, Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng NLTS nhiều nhất từ các thị trường thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ với thị phần lần lượt là 29,9% và 23,9%. Thị phần của 3 khu vực châu Phi, châu Âu, và châu Đại Dương nhỏ, lần lượt là 4,8%, 4,7%, và 3,5%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 từ khu vực châu Á tăng 16,7%; châu Mỹ tăng 11,4%; châu Phi tăng 31,3%; châu Âu tăng 6,1%; và châu Đại Dương giảm 5,3%.
Theo thị trường cụ thể, Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Áchentina, là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng NLTS lớn nhất cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 9,7%, 9%, và 6,7%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Trung Quốc tăng 13%, Hoa Kỳ tăng 32%, và Áchentina tăng 7,1%
Riêng giá trị nhập khẩu thủy sản tháng 9 năm 2025 ước đạt 220 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu hàng thủy sản 9 tháng đầu năm 2025 đạt 2,37 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Nguồn nhập khẩu hàng thủy sản chính là các thị trường Ấn Độ, Inđônêxia và Nauy với thị phần lần lượt là 15,1%, 14,3% và 10,9%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu hàng thủy sản 8 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Ấn Độ tăng 97,6%, thị trường Inđônêxia tăng 63,4%, thị trường Nauy tăng 14,9%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Đan Mạch với mức tăng 2,4 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Đài Loan với mức giảm 20,1%.
Xuất siêu gần 16 tỷ USD
Cán cân thương mại NLTS Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 ước đạt thặng dư 15,93 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, lâm sản, thủy sản và nông sản là 3 nhóm hàng có cán cân thương mại 9 tháng đầu năm 2025 ở trạng thái thặng dư. Cụ thể, nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 11,01 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2024; nhóm thủy sản thặng dư 5,74 tỷ USD, tăng 7,1% và nhóm nông sản thặng dư 6,13 tỷ USD, tăng 41,3%. Trong khi đó, cán cân thương mại 3 nhóm hàng còn lại ở trạng thái thâm hụt: nhóm đầu vào sản xuất thâm hụt 4,08 tỷ USD, giảm 3,5%; sản phẩm chăn nuôi thâm hụt 2,86 tỷ USD, tăng 22,7%; và muối thâm hụt 17,8 triệu USD, giảm 17,4%.
Đến nay, Ngành nông nghiệp đang có 7 mặt hàng NLTS có thặng dư thương mại ước tính 7 tháng đầu năm 2025 đạt trên 1 tỷ USD gồm: gỗ và sản phẩm gỗ thặng dư 10,15 tỷ USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; cà phê thặng dư 6,68 tỷ USD, tăng 64,4%; hàng rau quả thặng dư 4,33 tỷ USD, tăng 8,8%; tôm thặng dư 2,84 tỷ USD, tăng 12,5%; gạo thặng dư 2,04 tỷ USD, giảm 38,7%; cá tra thặng dư 1,46 tỷ USD, tăng 7,9%; hạt tiêu thặng dư gần 1,06 tỷ USD, tăng 18%.
Với những con số tích cực này cho thấy sự nỗ lực và khả năng thích ứng của ngành NLTS Việt Nam, đồng thời phản ánh hiệu quả chỉ đạo, tổ chức triển khai chính sách xuất khẩu, với sự phối hợp linh hoạt giữa các Bộ, ngành và địa phương. Các kết quả đạt được không chỉ giúp ngành Nông nghiệp hoàn thành mục tiêu năm 2025 mà còn tạo tiền đề vững chắc cho kế hoạch dài hạn, đặc biệt chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm Ngày Nông nghiệp - Môi trường vào ngày 14/11 tới.
Bên cạnh đó, ngành cũng có 6 mặt hàng NLTS có thâm hụt thương mại ước tính 9 tháng đầu năm 2025 cao nhất vượt mức 1 tỷ USD, gồm: thức ăn gia súc và nguyên liệu thâm hụt 2,44 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước; bông các loại thâm hụt 2,27 tỷ USD, tăng 4%; chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt thâm hụt 2,12 tỷ USD, giảm 11,4%; ngô thâm hụt 1,92 tỷ USD, tăng 1,7%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật thâm hụt 1,26 tỷ USD, tăng 13,9%; lúa mì thâm hụt 1,07 tỷ USD, giảm 13,4%.
Thanh Thủy