Dự báo nguồn cung tôm toàn cầu sẽ phục hồi (27-04-2025)

Năm 2025, nguồn cung tôm toàn cầu sẽ phục hồi, mặc dù giá tôm ở nhiều nơi trên thế giới đang ở mức thấp kỷ lục. Diện tích nuôi tôm nước lợ của Việt Nam dự kiến đạt 750.000 ha, tăng 1,8% so với năm trước, với sản lượng đạt 1,29 triệu tấn, tăng 2%.
Dự báo nguồn cung tôm toàn cầu sẽ phục hồi
Ảnh minh hoạ

Theo bản tin Thị trường Nông Lâm Thủy sản, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức tháng 01/2025 tăng 15,7% về lượng và tăng 18% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Năm 2024, Đức giảm nhập khẩu thủy sản từ nhiều thị trường ngoại khối EU, nhưng tăng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam. Thị phần thủy sản của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của thị trường Đức tăng. Nguồn cung cá tuyết thắt chặt, giá tiếp tục tăng. Theo Rabobank, nguồn cung tôm toàn cầu năm 2025 sẽ phục hồi, mặc dù giá tôm ở nhiều nơi trên thế giới đang ở mức thấp kỷ lục.

Thị trường cá tuyết: Cá thịt trắng là một trong những mặt hàng thủy sản được ưa thích nhất trên thế giới. Các sản phẩm từ cá tuyết cod, cá minh thái Alaska, cá haddock, cá rô phi, cá tra... ngày càng được người tiêu dùng trên khắp thế giới ưa chuộng, do hương vị thơm ngon, giàu dinh dưỡng và mức giá phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng.

Cá tuyết được coi là “vua” của các loại cá thịt trắng nhờ giá trị thương hiệu cao, chất lượng thịt tốt và giá trị dinh dưỡng dồi dào. Tại Hoa Kỳ, cá tuyết là loại cá thịt trắng được tiêu thụ nhiều nhất, đặc biệt là phile cá tuyết đông lạnh với mã HS 030471. Trong năm 2024, thị trường cá tuyết phải đối mặt với tình trạng nguồn cung bị thắt chặt nghiêm trọng, một phần do các hạn ngạch đánh bắt bị giảm mạnh ở các khu vực đánh bắt chính như Biển Barents.

Theo thông tin mới nhất, tổng sản lượng cá tuyết được phép đánh bắt ở Biển Barents trong năm 2025 sẽ giảm 25%, chỉ còn 340.000 tấn, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị giảm 31% từ các nhà khoa học. Điều này làm gia tăng lo ngại về khả năng tiếp cận nguyên liệu trong những năm tới. Đặc biệt, đội tàu đánh cá bằng lưới kéo, vốn là nguồn cung chính cho cá tuyết đông lạnh H&G (bỏ đầu, bỏ ruột), dự kiến sẽ giảm 32%, gây thêm áp lực lên nguồn cung. Hạn ngạch cá tuyết chấm đen cũng bị cắt giảm, với mức cho phép đánh bắt giảm xuống chỉ còn 130.000 tấn trong năm 2024, trong đó Na Uy chiếm 65.468 tấn. Tình trạng giảm sản lượng không chỉ do hạn ngạch mà còn bởi yếu tố hậu cần. Các cuộc đình công tại cảng và sự thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu thô đã làm chậm quá trình giao nhận, ảnh hưởng đến việc cung cấp và giá cả trên toàn cầu.

Với tình hình nguồn cung khan hiếm, giá cá tuyết từ Na Uy và Nga đã tăng mạnh trong những tháng cuối năm 2024. Cụ thể, giá cá tuyết đông lạnh H&G loại 1-2 kg của Na Uy đã lên tới khoảng 7.300-7.400 USD/ tấn khi giao đến Trung Quốc (CFR). Mức giá đối với cá tuyết Đại Tây Dương H&G của Nga dao động trong khoảng 6.000-6.200 USD/tấn, CFR Trung Quốc. Sự tăng giá của cá tuyết chấm đen cũng rất đáng chú ý, với mức giá lên tới 4.900 - 5.000 USD/tấn đối với các sản phẩm từ Na Uy. Giá cá tuyết chấm đen từ Nga và Na Uy gần như tương đương do lệnh cấm nhập khẩu từ Nga của Hoa Kỳ không áp dụng với cá tuyết chấm đen, khiến cá của Nga có thể được chế biến tại Trung Quốc và sau đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

Trong khi đó, giá cá tuyết Đại Tây Dương của Na Uy cao hơn so với cá tuyết Đại Tây Dương của Nga khoảng 1.300 USD/tấn, mức tăng giá đã vượt qua mức kỷ lục trước đó. Giá cá tuyết chấm đen H&G của Nga đã tăng 140% so với năm 2023, trong khi của Na Uy tăng 120%. Đây là mức tăng mạnh mẽ và phản ánh sự căng thẳng trong nguồn cung. Thị trường cá tuyết dự báo sẽ tiếp tục có diễn biến phức tạp trong thời gian tới. Với việc hạn ngạch đánh bắt giảm và tình trạng thiếu hụt nguyên liệu thô tiếp diễn, giá cá tuyết có thể sẽ tiếp tục tăng.

Dự báo, giá cá tuyết đông lạnh H&G từ Na Uy và Nga có thể sẽ duy trì ở mức cao, đặc biệt là khi sản lượng từ Biển Barents giảm mạnh. Vấn đề hậu cần, bao gồm đình công tại các cảng và sự gia tăng chi phí vận chuyển, cũng sẽ càng tăng thêm tình trạng thiếu hụt và đẩy giá lên cao. Bên cạnh đó, việc Hoa Kỳ tiếp tục duy trì lệnh cấm đối với cá tuyết từ Nga cũng có thể tạo ra những biến động lớn đối với giá cả.

Thị trường tôm: Theo nhà phân tích Gorjan Nikolic của Rabobank, nguồn cung tôm toàn cầu sẽ phục hồi vào năm 2025, mặc dù giá tôm ở nhiều nơi trên thế giới hiện đang ở mức thấp kỷ lục. Theo Rabobank, Ê-cu-a-đo vẫn là quốc gia sản xuất tôm lớn nhất thế giới, với mức tăng trưởng dự báo đạt 3% vào năm 2025. Ngành nuôi tôm của Mê-hi-cô đã phục hồi mạnh mẽ từ sau cuộc suy thoái năm 2013, sản lượng vượt 200.000 tấn vào năm 2023. Sản lượng tôm tăng trưởng 1% vào năm 2024 và dự kiến 4% vào năm 2025 tại Mê-hi-cô cho thấy sự ổn định dù giá tôm thấp. Mê-hi-cô cũng có thị trường nội địa mạnh mẽ và khả năng gia tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Mặc dù quy mô nhỏ hơn, ngành tôm của Bra-xin đã tăng trưởng đáng kể kể từ năm 2017, với mức tăng 20% vào năm 2023 và 10% vào năm 2024. Sản lượng tôm ở Bra-xin dự kiến sẽ vượt 160.000 tấn vào năm 2025.

Tại Ấn Độ, giá thấp đã khiến một số nông dân chuyển từ nuôi tôm chân trắng sang tôm sú. Rabobank dự đoán sản lượng tôm Ấn Độ năm 2025 sẽ tăng 2% so với năm 2024. Trong khi đó, diện tích nuôi tôm nước lợ của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 750.000 ha, tăng 1,8% so với năm 2024, với sản lượng đạt 1,29 triệu tấn, tăng 2% so với năm trước. Ở In-đô-nê-xi-a, sản lượng tôm ước tính đạt 450.000 tấn vào năm 2024, giảm 2% so với năm 2023, nhưng sẽ tăng 3% vào năm 2025. In-đô-nê-xi-a phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Ê-cu-a-đo và Ấn Độ, cùng với giá thấp, vì vậy mức giảm 2% trong năm 2024 vẫn có thể xem là khá lạc quan. Sản lượng tôm của Thái Lan gần như không thay đổi, dự kiến giảm 1% vào năm 2024 và tăng 2% vào năm 2025, với tổng sản lượng tôm chân trắng và tôm sú đạt 400.000 tấn trong năm 2025.

TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM

Theo thống kê từ số liệu của Tổng cục Hải quan, tháng 01/2025, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức đạt 3,1 nghìn tấn, trị giá 16,5 triệu USD, tăng 15,7% về lượng và tăng 18% về trị giá so với tháng 01/2024. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng góp vào tổng xuất khẩu tháng 01/2025 như: Tôm đông lạnh tăng 9,5% về lượng và tăng 10,3% về trị giá; Cá tra đông lạnh tăng 36,2% về lượng và tăng 56,6% về trị giá; Cá ngừ đông lạnh tăng 26% về lượng và tăng 2,6% về trị giá; Cá thu đông lạnh tăng 30,2% về lượng và tăng 60,5% về trị giá so với tháng 01/2024. Trong EU, Đức là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam.

Thị trường Đức có mức tiêu thụ thủy sản bình quân tính theo người khá cao, khoảng 16 kg/người/năm. Hàng năm, thị trường Đức nhập khẩu trên 90% tổng thủy sản tiêu dùng. Các thị trường cung cấp thủy sản chính cho Đức là châu Á, châu Phi, Nam Hoa Kỳ và khu vực Caribê… Hiện nay, những mặt hàng thủy sản có nguồn gốc từ các khu vực nhiệt đới như thủy sản Việt Nam đang ngày càng được người tiêu dùng Đức ưa chuộng. Người tiêu dùng thủy sản của Đức cũng ngày một cởi mở hơn trong việc sử dụng các sản phẩm châu Á nói chung và từ Việt Nam nói riêng. Người tiêu dùng thủy sản Đức sẵn sàng sử dụng các sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển nếu sản phẩm đó có xuất xứ rõ ràng, có chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh.

DUNG LƯỢNG THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU THỦY SẢN CỦA ĐỨC NĂM 2024 VÀ THỊ PHẦN CỦA VIỆT NAM

Theo số liệu của Cơ quan Thống kê châu Âu, nhập khẩu hàng thủy sản (mã HS 03, 1604, 1605) vào thị trường Đức trong năm 2024 từ các thị trường ngoại khối EU đạt 291,07 nghìn tấn, trị giá 1,47 tỷ EUR (tương đương 1,53 tỷ USD), giảm 11,4% về lượng và giảm 12% về trị giá so với năm 2023. Trong đó, các thị trường lớn cung cấp thủy sản cho Đức gồm: Trung Quốc chiếm 19,85% về lượng và chiếm 13,98% về trị giá; Na Uy chiếm 5,70% về lượng và chiếm 10,35% về trị giá; Hoa Kỳ chiếm 13,07% về lượng và chiếm 10,04% về trị giá; Việt Nam chiếm 8,46% về lượng và chiếm 9,6% về trị giá; Nga chiếm 12,18% về lượng và chiếm 7,49% về trị giá; Ê-cu-a-đo chiếm 6,48% về lượng và chiếm 6,03% về trị giá trong tổng nhập khẩu thủy sản của Đức. Năm 2024, Đức giảm nhập khẩu thủy sản từ nhiều thị trường như: Trung Quốc, Nga, Pa-pua Niu Ghi-nê, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ… Trái lại, Đức tăng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam với mức tăng 7% về lượng và  +1,3% về trị giá.

Ngọc Thúy (moit.gov.vn)

Ý kiến bạn đọc