Chất lượng môi trường nước vùng nuôi tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể trong tháng 7 năm 2023 tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước (23-08-2023)

Thực hiện Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) giai đoạn từ năm 2021-2025, Cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và chỉ đạo Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định NTTS tiến hành quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng NTTS với 172 điểm quan trắc trên tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Chất lượng môi trường nước vùng nuôi tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể trong tháng 7 năm 2023 tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước
Ảnh minh họa

Vùng nuôi tôm nước lợ khu vực phía Bắc

Các thông số như độ mặn, DO, S2-, COD, tảo độc có giá trị này nằm trong ngưỡng cho phép. Nhiệt độ, pH, độ mặn, N-NH4+, N-NO2-, P-PO43-, TSS, Coliform và Vibrio tổng số ở một số điểm quan trắc có giá trị nằm ngoài ngưỡng giới hạn cho phép. Cụ thể, nhiệt độ và pH trong nước cấp dao động từ 29,7 – 33,50C và 6,8 – 8,4, trong đó điểm nguồn cấp tại Quảng Bình do ảnh hưởng của nắng nóng đã có ghị nhận 04 mẫu thu có nhiệt độ cao trên 33,00C và 01 mẫu có pH nhỏ hơn 7, không phù hợp khi cấp vào ao nuôi theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT. Độ mặn dao động từ 7 – 36 ‰, có 11,54 % số mẫu ở điểm quan trắc tại Lăng Cô – Huế và Kỳ Hà – Hà Tĩnh cao hơn ngưỡng phù hợp cho nuôi tôm nước lợ theo QCVN 0219:2014/BNNPTNT (5-35‰). Độ kiềm trong nước nguồn cấp dao động từ 68 – 239 mg/l, mẫu nước nguồn cấp tại Quảng Thuận – Quảng Bình có giá trị cao hơn ngưỡng phù hợp cho nuôi tôm nước lợ (60 -180 mg/l). Nồng độ N-NH4+ trong nước dao động từ 0 – 1,134 mg/l, có 46,15 % số mẫu cao hơn từ 1,1 – 3,8 lần so với giới hạn theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT (<0,3 mg/l). Hàm lượng TSS dao động từ  3 – 79 mg/l, có 7,69 % mẫu có gia trị cao vượt ngưỡng giới hạn theo QCVN 10-MT:2015/BTNMT (<50 mg/l). Mật độ Coliform và Vibrio trong nước nguồn cấp tháng 07/2023 lần lượt dao đông từ 0 – 37.000 cfu/100 ml và 0 – 2.300 cfu/ml, có lần lượt 50,0 % và 19,23 % số mẫu cao vượt giới hạn. Không phát hiện VpAHPND trong nước nguồn cấp trong tháng 07 năm 2023. 

Chỉ số đánh giá chất lượng nước (WQI) nước nguồn cấp có 11/26 mẫu đạt chất lượng rất tốt, 05/26 mẫu đạt chất lượng tốt, 06/26 mẫu ở mức trung bình và 04/26 mẫu ở mức xấu. So sánh với cùng kỳ năm 2022 thì nguồn cấp trong tháng 07 năm 2023 có chất lượng tốt hơn.

Vùng nuôi tôm nước lợ khu vực Nam Trung Bộ

Các thông số nhiệt độ, pH, độ mặn, N-NO2-,DO, S2- (H2S), TSS, độ kiềm nằm trong giới hạn cho phép (GHCP) và các mẫu nước quan trắc đều âm tính với vi khuẩn V.parahaemolyticus gây AHPND trên tôm nước lợ. Có 5/14 thông số quan trắc định kỳ nằm ngoài GHCP, chiếm 35,7%, hầu hết xảy ra ở các vùng nuôi nội đồng, gần cửa sông, giảm 02 thông số (độ kiềm, độ mặn) so với cùng kỳ năm 2022. Trong các thông số nằm ngoài GHCP thì N-NH4+, P-PO43- cùng có 5/26 mẫu vượt GHCP, chiếm 19,2%; COD có 3/26 mẫu vượt, chiếm 11,5%; coliforms có 1/26 mẫu vượt, chiếm 3,8% và Vibrio spp. có 2/26 mẫu, chiếm 7,7%. 

Chỉ số đánh giá chất lượng môi trường nước cấp (WQI) vùng nuôi tôm nước lợ quan trắc hầu hết ở mức tốt đến rất tốt (VNWQI=83-97), ngoại trừ vùng nuôi Vinh Quang, Đông Điền (Bình Định), Tân Thủy (Khánh Hòa) có chất lượng nước ở mức trung bình cả hai đợt quan trắc (VN-WQI=56-69). Chất lượng nước có cải thiện nhưng không đáng kể so với cùng kỳ năm 2022 (VN-WQI=45-96).

Vùng nuôi tôm nước lợ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Các thủy vực được quan trắc đều có giá trị pH, nhiệt độ, độ mặn đều nằm trong khoảng giá trị cho phép theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT. Chỉ ghi nhận lưu vực bến phà Đại Ân 1, Cầu Cà Lăm, cầu chữ U (Sóc Trăng) và cửa Vinh Kinh (Trà Vinh), sông Bạc Liêu (Bạc Liêu), rạch Vũng Luông, rạch Rừng Giá (Bến Tre) có giá trị độ mặn thấp hơn 5‰. Hàm lượng DO thấp tập trung trong các thuỷ vực quan trắc thuộc Bạc Liêu.

Một số chỉ tiêu vượt giới hạn cho phép gồm N-NO2-, (dao động từ 0,004-0,367mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 79%), N-NH4+, (dao động từ 0,012-5,313mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 54,2%), P-PO43- (dao động từ 0,008-0,692mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 37,5%), Vibrio sp. tổng số (dao động từ 10-1,3x105 CFU/mL, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 22,2%) tập trung chủ yếu ở các thủy vực được quan trắc ở Bạc Liêu và Cà Mau. Ngoài ra ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus chiếm 56,9% lượt quan trắc, mật độ từ 0-540 CFU/mL.

Chỉ số đánh giá chất lượng nước (WQI) trung bình trong các thủy vực dao động từ 36-96, ở mức chất chất lượng nước trung bình chiếm 51%, tốt chiếm 35% và rất tốt chiếm 10% và 3% chất lượng nước ở mức xấu. Các thủy vực quan trắc có chất lượng nước đạt ở mức trung bình, xấu chủ yếu do ô nhiễm cục bộ, các thông số ô nhiễm hữu cơ hoặc mật độ vibrio tổng tăng cao. Kết quả quan trắc ghi nhận 1 số điểm quan trắc như kênh mương 7 (Bạc Liêu), sông Thị Tường, kênh Sáng Tân Hưng (Cà Mau) có mật độ vibrio tổng số rất cao, chất lượng nước ở mức xấu cần diệt khuẩn kỹ trước khi lấy nước vào ao nuôi để hạn chế dịch bệnh trong ao.

Vùng nuôi cá tra 

Các thông số nhiệt độ, pH, DO hầu hết nằm trong khoảng giá trị cho phép theo QCVN 0220:2014/BNNPTNT. Ghi nhận hàm lượng các chất ô nhiễm, vi khuẩn aeromonas tổng số vượt GHCP ở 1 số thủy vực như Tân Công Sính 1 (Đồng Tháp), trạm giao thông đường thủy (Cần Thơ) trong lượt quan trắc đầu tháng 6/2023. Trong tháng 6/2023, mật độ vi khuẩn Aeromonas tổng số ghi nhận được 44% số lượt quan trắc cao hơn 103CFU/mL, tăng so với tháng 4-5/2023. Ngoài ra ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn Edwardsiella ictaluri với tần suất là 17% và Aeromonas hydrophilla là 82%. 

Chỉ số đánh giá chất lượng nước (WQI): Hầu hết các điểm quan trắc có chỉ số chất lượng nước phân loại ở mức “Rất tốt” (chiếm 63%) và “Tốt” (33%). Ngoài ra có 4,7% có chất lượng nước “Trung bình” và 0,5% có chất lượng nước xấu vì các chỉ số chỉ thị ô nhiễm hữu cơ đều cao hơn giới hạn cho phép theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT và mật độ aeromonas tăng rất cao.

Vùng nuôi nhuyễn thể khu vực phía Bắc

Các thông số nhiệt độ, pH, độ kiềm, S2- trong nước vùng nuôi nhuyễn thể có giá trị nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép. Độ mặn dao động từ 2 – 30 ‰, trong đó nước tại vùng nuôi ngao Thái Bình có 02 điểm cống xả nội đồng có giá trị thấp (2 ‰), vùng nuôi ngao tại Thanh Hoá và vùng nuôi hàu tại Quảng Ninh có giá trị phù hợp. Hàm lượng N-NH4+ dao động từ 0,065 – 0,561 mg/l, có 18,18 % mẫu vượt giới hạn cho phép 1,34 – 1,87 lần với ngưỡng giới hạn theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT (<0,3 mg/l). Mật độ Coliform trong nước vùng nuôi dao động từ 0 – 12.000 cfu/100 ml, có 36,26 % số mẫu vượt giới hạn theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT từ 1,3 – 4,8 lần. Có 18,18 % số mẫu nước vùng nuôi có mật độ Vibrio tổng số cao hơn 1,6 – 2,1 lần so với quy định. Phát hiện vi khuẩn V. alginolyticus, V. harveyi, V. vulnificus và V. mytili trên mẫu ngao và hàu nuôi với tần suất bắt gặp 1/3 mẫu. Không phát hiện kí sinh trùng Perkinsus olseni trong các mẫu ngao, hàu.

Chỉ số đánh giá chất lượng nước (WQI) trong tháng 07/2023: có 8/11 mẫu đạt chất lượng tốt đến rất tốt, 02/11 mẫu ở mức trung bình và 01 mẫu ở mức xấu. So với cùng kỳ năm 2022 thì chỉ số WQI tháng 07 năm 2023 có giá trị tốt hơn.

Vùng nuôi nhuyễn thể khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Các thông số hoá lý trong nước như pH, độ mặn, độ kiềm, ammonia, nitrite, phosphate, COD, tổng sulfide đều ở mức cho phép. Ngoài ra mật độ vi khuẩn vibrio cao ở HTX Rạng Đông, Tân Thủy và Thành Đạt. Bên cạnh đó, ghi nhận có sự xuất hiện của một số loài tảo Pseudonitzschia spp., Chaetoceros spp., Leptocylindrus spp., Skeletonema costatum, Skeletonema costatum, nhưng ở mật độ chưa ở mức gây hại cho nghêu. Chưa ghi nhận sự hiện diện của Perkinsus nhưng có sự hiện diện của Rickettsia-like Organisms trên nghêu với tỷ lệ 10-30% ở HTX Rạng Đông, Thành Lợi và Thành Đạt.

Khuyến cáo đối với người nuôi

 Sau khi có kết quả quan trắc, kết hợp với bản tin dự báo tình hình thời tiết của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia, Cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định NTTS gửi thông báo kết quả quan trắc đến Chi cục Thuỷ sản/Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thuỷ sản, phòng nông nghiệp huyện, các doanh nghiệp và cơ sở NTTS bằng hình thức email, EMS, zalo… để triển khai ngay các biện pháp ổn định môi trường vùng nuôi; cập nhập số liệu quan trắc vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường.

Tháng 7 năm 2023, trên cơ sở kết quả quan trắc Cục Thuỷ sản phối hợp với các đơn vị ban hành công văn về việc chủ động ứng phó với nắng nóng, mưa bão, áp thấp nhiệt đới, lũ trong NTTS năm 2023; đăng tải trên Website của Cục Thuỷ sản, Báo Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Cục Thuỷ sản đề nghị các địa phương, trên cơ sở kết quả quan trắc môi trường tại thông báo này, cùng với kết quả quan trắc môi trường NTTS của địa phương đã chuyển tải đến người nuôi để đưa ra các giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển NTTS hiệu quả, bền vững; cập nhập kết quả quan trắc môi trường vào cơ sở dữ liệu quan trắc môi trường tại địa chỉ http://csdlquantrac.tongcucthuysan.gov.vn:85.

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác