Đối với vùng nuôi tôm nước lợ khu vực phía Bắc: Các thông số như nhiệt độ, pH, DO, P-PO43-, N-NO2‑, S2-, COD và TSS có giá trị này nằm trong ngưỡng cho phép. Độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, Coliform và Vibrio tổng số ở một số điểm quan trắc có giá trị nằm ngoài ngưỡng giới hạn cho phép (GHCP).
Cụ thể: Độ mặn dao động từ 1 – 33 ‰, các điểm quan trắc Quỳnh Bảng, Quỳnh Liên, Trung Hải và Hiền Thành có giá trị thấp (từ 1-7 ‰). Độ kiềm dao động từ 24 – 92 mg/l, có 30,77 % số mẫu ở các điểm quan trắc Hiền Thành và Trung Hải – Quảng Trị, Võ Ninh và Quảng Thuận – Quảng Bình, Kỳ Hà và Hộ Độ - Hà Tĩnh có giá trị thấp hơn ngưỡng phù hợp cho nuôi tôm nước lợ theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT. Nồng độ N-NH4+ trong nước dao động từ 0,062 – 0,663 mg/l, có 3,46 % số mẫu cao hơn giới hạn lần lượt so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Mật độ Coliform và Vibrio trong nước nguồn cấp tháng 03/2023 lần lượt dao đông từ 0 – 64000 cfu/100 ml và 0 – 1400 cfu/ml, có lần lượt 57,69 % và 11,54 % số mẫu cao vượt giới hạn. Phát hiện tảo Pseudo-nitzschia sp. và Dinophysis caudata tại Lăng Cô, Kỳ Hà, Hộ Độ, Hải Chính và Quất Lâm, tuy nhiên mật độ thấp, chưa đến ngưỡng cảnh báo. Không phát hiện VpAHPND và tảo độc trong nước nguồn cấp trong tháng 3 năm 2023. So sánh với cùng kỳ năm 2022 thì nguồn cấp trong tháng 3 năm 2023 có chất lượng tốt hơn.
Vùng nuôi tôm nước lợ khu vực Nam Trung Bộ: Kết quả quan trắc môi trường vùng nuôi tôm nước lợ và sản xuất giống tháng 3 năm 2023, cho thấy các thông số gồm nhiệt độ, pH, N-NO2, DO, S2- (H2S), P-PO43-, TSS, nằm trong giới hạn cho phép (GHCP); các mẫu nước quan trắc đều âm tính với vi khuẩn V. parahaemolyticus gây AHPND trên tôm nước lợ. Có 4/14 thông số quan trắc gồm độ mặn, độ kiềm, COD, Vibrio spp. nằm ngoài GHCP, giảm 03 thông số (N-NH4+, P-PO43-, coliforms) so với cùng kỳ năm 2022. Trong các thông số nằm ngoài GHCP thì độ mặn, độ kiềm cùng có 4/26 mẫu vượt giới hạn, chiếm 15,4%; COD có 7/26 mẫu vượt giới hạn, chiếm 26,9%; Vibrio spp. có 2/26 mẫu vượt giới hạn, chiếm 7,7%.
Nhìn chung, các thông thông số vượt GHCP các đợt quan trắc tháng 3 năm 2023 thay đổi đáng kể so với cùng kỳ năm 2022 và tập trung chủ yếu tại các vùng nuôi tôm nước lợ nội đồng như: Đông Điền, Vinh Quang (Bình Định), Xuân Đông, Tân Thủy (Khánh Hòa). Chất lượng môi trường nước cấp hai đợt quan trắc (Đợt 5 và 6) hầu hết ở mức tốt đến rất tốt (VN-WQI=82-96), ngoại trừ vùng nuôi Vinh Quang, Đông Điền đợt 6 có chất lượng nước ở mức trung bình (VN-WQI=67). Chất lượng nước có cải thiện nhưng không nhiều so với cùng kỳ năm 2022 (VN-WQI=54-96).
Vùng nuôi tôm khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Kết quả cho thấy giá trị pH, nhiệt độ, độ mặn đều nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT. Chỉ ghi nhận lưu vực bến phà Đại Ân 1 (Sóc Trăng) có giá trị độ mặn thấp hơn 5‰. Hàm lượng DO thấp tập trung trong các thuỷ vực quan trắc thuộc Bạc Liêu. Một số chỉ tiêu vượt giới hạn cho phép gồm N-NO2 (dao động từ 0,002-0,294mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 27,8%), N-NH4+, (dao động từ 0,015-0,95mg/L, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 15,3%), Vibrio sp. tổng số (dao động từ 0-15.400 CFU/mL, tỷ lệ vượt GHCP chiếm 36,1%) tập trung chủ yếu ở các thủy vực được quan trắc ở Bạc Liêu và Cà Mau. Ngoài ra ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus chiếm 54% lượt quan trắc, mật độ từ 0-110 CFU/mL.
Chỉ số chất lượng nước (WQI) trung bình trong các thủy vực dao động từ 42-95, ở mức chất lượng nước trung bình chiếm 11%, tốt chiếm 61% và rất tốt chiếm 24%. Các thủy vực quan trắc có chất lượng nước đạt ở mức trung bình chủ yếu do các thông số ô nhiễm hữu cơ hoặc mật độ vibrio tổng tăng cao.
Vùng nuôi cá tra: Kết quả quan trắc vùng nuôi cá tra cho thấy các thông số nhiệt độ, pH, DO hầu hết nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN 02-20:2014/BNNPTNT. Ghi nhận hàm lượng các chất ô nhiễm vượt GHCP ở 1 số thủy vực như sông Tiền-An Nhơn, Mái Dầm, Cầu kênh ông Cò, Vĩnh Xương, trạm giao thông đường thủy, Cồn Thới An, Long Hồ. Độ dẫn diện trong các thuỷ vực ít biến động, tuy nhiên cần lưu ý lưu vực Thạnh Phú Đông có độ dẫn điện cao, có nguy cơ xâm nhậm mặn. Mật độ vi khuẩn Aeromonas tổng số ghi nhận được 12% số lượt quan trắc cao hơn 103CFU/mL. Ngoài ra ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn Edwardsiella ictaluri với tần suất là 11% và Aeromonas hydrophilla là 74%.
Chỉ số đánh giá chất lượng nước WQI ở hầu hết các điểm quan trắc phân loại ở mức “Rất tốt” (chiếm 74,3%) và “Tốt” (24,3%). Ngoài ra, có 1,4% có chất lượng nước “Trung bình” vì các chỉ số chỉ thị ô nhiễm hữu cơ đều cao hơn giới hạn cho phép theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT.
Vùng nuôi nhuyễn thể khu vực phía Bắc: Kết quả quan trắc cho thấy các thông số gồm nhiệt độ, pH, độ kiềm, độ mặn, ammonia, nitrite, phosphate, COD, tổng sulfide đều có giá trị nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép. Độ mặn dao động từ 2 – 34 ‰, trong đó nước vùng nuôi ngao tại Thanh Hoá và vùng nuôi hàu tại Quảng Ninh có giá trị phù hợp, tại vùng nuôi ngao Thái Bình có 02 điểm cống xả nội đồng có giá trị thấp (2 ‰). Hàm lượng N-NH4+, dao động từ 0,082 – 0,524 mg/l, có 9,09 % mẫu vượt giới hạn cho phép từ 1,7 lần. Mật độ Coliform trong nước vùng nuôi dao động từ 0 – 130000 cfu/100 ml, có 72,73 % số mẫu vượt giới hạn theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT từ 2,3 – 52 lần. Có 3/11 mẫu nước vùng nuôi có mật độ Vibrio tổng số cao hơn 1,2 – 1,7 lần so với quy định. Phát hiện vi khuẩn V. alginolyticus, V. parahaemolyticus, V.fluvialis và V.cholerae trên mẫu ngao và hàu nuôi với tần suất bắt gặp 1/3 mẫu. Không phát hiện kí sinh trùng Perkinsus olseni trong các mẫu ngao.
|
Chỉ số WQI trong tháng 3, ở vùng nuôi nhuyễn thể có 01 điểm đạt mức rất tốt, 01 điểm đạt mức tốt, các điểm còn lại ở mức xấu đến mức trung bình
Vùng nuôi nhuyễn thể khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Kết quả cho thấy các thông số như pH, độ mặn, độ kiềm, ammonia, nitrite, phosphate, COD, tổng sulfide đều ở nằm trong giới hạn cho phép. Mật độ Vibrio tổng số và vi khuẩn hiếu khí ở mẫu nước từ 103-104 CFU/ml. Ghi nhận có sự xuất hiện của một số loài tảo Pseudonitzschia spp., Chaetoceros spp., Leptocylindrus spp., Skeletonema costatum, Euglena spp., Microcystis sp. nhưng ở mật độ chưa ở mức gây hại cho nghêu. Các mẫu nghêu được kiểm tra ghi nhận dương tính với Vibrio alginolyticus. Chưa ghi nhận sự hiện diện của Perkinsus nhưng có sự hiện diện của Rickettsia-like Organisms trên nghêu với tỷ lệ 20-30%.
Trong tháng 3 năm 2023 có xảy ra hiện tượng nghêu chết ở Tiền Giang và Bến Tre, tuy nhiên kết quả kiểm tra chất lượng nước đều trong khoảng thích hợp cho nghêu, ghi nhận có sự hiện diện của Vibrio alginolyticus. Nghêu chết do thời điểm nắng nóng, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm cao, độ mặn tăng, thời gian phơi bãi dài. Các yếu tố này làm ảnh hưởng đến sức khỏe nghêu và dễ nhiễm các loài Vibrio như đã phát hiện dẫn đến hiện tượng nghêu chết.
Khuyến cáo đối với người nuôi
Sau khi có kết quả quan trắc, kết hợp với bản tin dự báo tình hình thời tiết của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia, Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định Nuôi trồng Thuỷ sản gửi thông báo kết quả quan trắc đến các cơ quan chuyên môn, các doanh nghiệp và cơ sở NTTS bằng hình thức email, EMS, zalo… để triển khai ngay các biện pháp ổn định môi trường vùng nuôi; cập nhập số liệu quan trắc vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường.
Ngoài ra, Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với các đơn vị ban hành bản tin cảnh báo diễn biến môi trường vùng nuôi tại 3 miền; ban hành văn bản về hướng dẫn, tăng cường nuôi nhuyễn thể năm 2023. Trên cơ sở kết quả quan trắc môi trường, Tổng cục Thuỷ sản đề nghị các địa phương, thông báo và có các giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển NTTS bền vững; cập nhập kết quả quan trắc môi trường vào cơ sở dữ liệu quan trắc môi trường.
Thanh Thủy