Hệ thống ủ xi-lô do PG Flow Solutions sản xuất nhằm mục đích tạo ra chất chứa protein cá chất lượng cao (FPC) tạo ra giá trị thị trường từ 12-15 NOK (1,07 đến 1,34 £) cho mỗi kg so với giá trị ủ xi-lô hiện tại là 2 NOK (0,18£)/kg.
Việc xử lý chất lỏng và giải pháp ủ xi-lô của chuyên gia kết hợp các thùng xử lý và thùng chứa vào vỏ các tàu đánh cá thịt trắng đánh bắt xa bờ, để tránh mất không gian lưu trữ phi lê cá có giá trị.
Giải pháp - được gọi là ủ xi-lô PG - được thiết kế cho các tàu đánh cá xa bờ, thường dài 70-100 mét, có các hạn ngạch cho phép các tàu này vận hành tương đối xa cảng nhà trong nhiều tuần trong một lần ra khơi.
Ngày nay, khoảng 30% một con cá trắng được sử dụng cho tiêu thụ của con người, phần còn lại chủ yếu được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi. Trong khi các tàu hoạt động gần cảng có khả năng nhận được mức giá chấp nhận được đối với phụ phẩm từ cá thịt trắng thì các tàu cá hoạt động cách xa cảng thường bán phụ phẩm ủ xi-lô như là một sản phẩm chất lượng thấp với giá tương đối thấp.
Roy Norum, Giám đốc điều hành của PG Flow Solutions cho biết: “Việc này nhằm khai thác hết tiềm năng của cá thịt trắng. Mục đích của chúng tôi là tăng giá phụ phẩm từ cá thịt trắng ủ xi-lô cho các tàu đánh cá từ mức 2 NOK/kg lên 12-15 NOK/kg. Quan trọng hơn, giải pháp của chúng tôi thực hiện điều này mà không chiếm lĩnh không gian quý giá của tàu cá”.
Cần khoảng 2.700 tấn cá để sản xuất 1.000 tấn cá philê. 1.700 tấn còn lại là phụ phẩm của cá và tương đương với khoảng 1.700m3 với mật độ 1kg/l. Phương pháp ủ xi-lô PG giúp giảm lượng này xuống còn khoảng 310m3 dầu cá và 530m3 FPC cô đặc. Sản phẩm cô đặc có thể được lưu trữ tối đa hai tháng để sản phẩm FPC chất lượng cao có thể được cung cấp cho nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi với mức giá 12-15 NOK/kg.
Phương pháp ủ xi-lô PG nhằm mục đích xử lý gần như tất cả các loại cá thịt trắng vì nó có thể dễ dàng thích nghi với các mức nhiệt độ quan trọng của các protein cá và dầu cá khác nhau, thông qua việc giám sát từ xa các bể chứa, đường ống và máy bơm từ cầu hoặc tháp điều khiển.
Quy trình ủ xi-lô PG thu thập nguyên liệu tươi trong bể chứa trực tiếp dưới máy phi lê cá trên tàu. Sau khi xay xát, quy trình tự hủy sẽ diễn ra trong bể này. Phần lớn xương cá được tách ra ở đây. Thức ăn ủ xi-lô sau đó được vận chuyển đến bể chứa khác, được nung lên đến mức tối đa để tách dầu cá và đưa nó vào một bể chứa riêng. Phần ủ xi-lô sau đó được đưa đến bể chứa mới, nơi các chất lỏng còn lại được chiết xuất qua quá trình bốc hơi. Khi bốc hơi đủ, phần ủ xi-lô được đưa vào các bể chứa để cho sản phẩm này được bán dưới dạng FPC tươi, chất lượng cao.
Roy Norum bổ sung: “Chúng tôi ước tính thời gian hoàn vốn của toàn bộ hệ thống ủ xi-lô PG, không bao gồm khấu hao, lãi suất và khấu trừ thuế có thể dưới 2 năm, dựa trên tính toán khi mà một tàu lưới kéo đông lạnh trọng tải 1.000 tấn tiến hành năm chuyến đánh bắt hàng năm, bao gồm tất cả các chi phí hoạt động liên quan”.
Trong khi việc loại bỏ phụ phẩm cá đang bị kiểm soát chặt chẽ hơn trong các quy định về hạn ngạch đánh bắt (EU đã thực hiện các quy định chống lại việc làm này), việc vận chuyển phụ phẩm không được xử lý chiếm không gian quý báu trên khoang chứa hàng trên tàu. Ngành thủy sản đã cố gắng giải quyết vấn đề tiến thoái lưỡng nan này với các xưởng sản xuất bột cá trên tàu. Tuy nhiên, chi phí cao và các yêu cầu năng lượng cho đến nay đã dẫn đến việc áp dụng chậm công nghệ này, mà cũng đòi hỏi không gian đáng kể trên tàu.
Norum cho biết thêm: “Hệ thống ủ xi-lô PG rẻ hơn đáng kể so với xưởng sản xuất bột cá. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng nhiệt tái sinh từ động cơ chính để quản lý quá trình nung nóng của hệ thống ủ xi-lô. Tóm lại, hệ thống của chúng tôi cho phép các tàu cá tăng thu nhập tài chính đáng kể và đảm bảo rằng các tàu cá hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp lý của EU về chất thải cá”.
PG Flow Solutions sẽ xác định tất cả các yêu cầu cụ thể đối với khối lượng, việc bơm và thiết kế bể mà nhà thiết kế tàu yêu cầu phải chấp nhận để bảo đảm cho quá trình ủ xi-lô.
HNN (Theo thefishsite)