Phát triển ngành tôm theo hướng nâng cao giá trị và bền vững (03-03-2023)

Ngày 3/3/2023, tại Sóc Trăng, Bộ NN&PTNT phối hợp với UBND tỉnh Sóc Trăng tổ chức “Hội nghị phát triển ngành tôm năm 2023”. Tại Hội nghị, nhiều giải pháp thiết thực đã được đưa ra với mong muốn góp phần nâng cao giá trị và phát triển bền vững ngành tôm Việt Nam.
Phát triển ngành tôm theo hướng nâng cao giá trị và bền vững
Ông Vương Quốc Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng phát biểu khai mạc hội nghị

Đến dự Hội nghị có ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT; ông Lâm Văn Mẫn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng; ông Vương Quốc Nam, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng; ông Trần Đình Luân, Tổng cục Trưởng Tổng cục Thủy sản; lãnh đạo các hiệp hội, ngành hàng; lãnh đạo 28 tỉnh, thành nuôi tôm; lãnh đạo các sở, ban ngành tỉnh liên quan; các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.

Đã biến nguy thành cơ

Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, năm 2022, diện tích tôm nước lợ thả nuôi của cả nước đạt 747 nghìn, bằng 100% so với năm 2021; trong đó diện tích nuôi tôm sú là 610 nghìn, tôm thẻ chân trắng 117,306 nghìn ha, còn lại là tôm càng xanh và tôm khác.

Sản lượng tôm nuôi các loại năm 2022 đạt 1.080,6 triệu tấn, tăng 8,5% so với năm 2021; trong đó sản lượng tôm sú đạt 271,4 nghìn tấn, tăng 1,9% so với năm 2021; tôm thẻ chân trắng đạt 743,5 nghìn tấn, tăng 11,6% so với năm 2021, còn lại là tôm càng xanh và tôm khác.

Kim ngạch xuất khẩu tôm của nước ta trong năm 2022 cũng lập kỷ lục khi đạt 4,3 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2021.

Tổng cục Thủy sản khẳng định, 2022 là năm khó khăn chung của toàn ngành nông nghiệp, đặc biệt là ngành tôm nhưng nhờ có sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt trong việc chỉ đạo bám sát thực tiễn, nắm bắt thời cơ, cơ hội thị trường… chúng ta đã biến nguy thành cơ, vì vậy, mặc dù diện tích nuôi tôm không tăng nhưng sản lượng đã tăng 8,5% so với năm 2021 và kim ngạch tăng 11,2% so với năm 2021, đây là mức cao kỷ lục từ trước đến nay.

Tuy nhiên, cũng theo Tổng cục Thủy sản, ngành tôm nước ta vẫn đang còn một số khó khăn, tồn tại như: Tôm bố mẹ phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên, trong nước mới cung cấp được một phần, chưa chủ động trong sản xuất.

Ông Trần Công Khôi, Phó Vụ Trưởng Vụ NTTS, TCTS báo cáo

kết quả nuôi tôm năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2023

Giá thành sản xuất tôm vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân là do thức ăn nuôi tôm vẫn đang chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất (khoảng trên 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp); chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; giá nguyên liệu, vật tư đầu vào tăng; nhiều vùng nuôi thiếu điện phải sử dụng máy nổ để bơm nước, quạt khí, phát điện; giá cước vận chuyển vật tư, nguyên liệu, sản phẩm thủy sản tăng cao…

Ngoài ra, còn có một số thách thức lớn khác như: Phần lớn hạ tầng vùng nuôi chưa đảm bảo; công nghệ vùng nuôi tôm quảng canh chưa phù hợp, năng suất thấp, hiệu quả sản xuất chưa cao. Mặc dù diện tích lớn nhưng sản lượng và giá trị thấp; công tác đăng ký, cấp mã số cơ sở nuôi tôm nước lợ còn chậm, tỷ lệ đăng ký thấp; các cơ sở nuôi nhỏ lẻ thường thiếu vốn sản xuất, phải mua chịu vật tư đầu vào, chịu lãi suất cao và không có cơ hội lựa chọn sản phẩm có chất lượng, lệ thuộc vào đại lý; tỷ lệ diện tích và sản lượng tôm nuôi theo tiêu chuẩn chứng nhận GAP, hữu cơ... còn thấp; việc kiểm soát bệnh EHP còn hạn chế…

Mục tiêu và giải pháp

Cũng theo Tổng cục Thủy sản, năm 2023, ngành tôm Việt Nam đặt mục tiêu đạt diện tích 750.000 ha (tôm sú 610.000 ha, tôm thẻ 120.000 ha, còn lại là tôm càng xanh và tôm khác); sản lượng tôm các loại 1.080 nghìn tấn (tôm sú 280 nghìn tấn, tôm thẻ chân trắng 750 nghìn tấn, còn lại là tôm càng xanh và tôm khác). Kim ngạch xuất khẩu trên 4,3 tỷ USD.

Phát biểu tham luận của lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ

Theo đó, Tổng cục Thủy sản cũng đưa ra 8 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, cụ thể: (1) Tiếp tục triển khai có hiệu quả thực hiện Luật Thủy sản 2017, đặc biệt là quan tâm chỉ đạo triển khai đăng ký đối tượng thủy sản nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân trắng). Tổ chức triển khai quyết liệt các nội dung đã được sửa đổi khi Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 26/2019/NĐ-CP được ban hành.

(2) Triển khai hiệu quả một số đề án, chương trình đã phê duyệt như: Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) đến năm 2030; kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025; đề án tổng thể phát triển ngành công nghiệp tôm Việt Nam đến năm 2030; đề án phát triển NTTS bền vững ĐBSCL.

(3) Tập trung ứng dụng khoa học, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, đáp ứng với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Ưu tiên phát triển ngành tôm nước lợ theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững. Tập trung hướng dẫn người nuôi về kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp, hiệu quả. Phát triển nuôi tôm và các khâu trong chuỗi sản xuất tôm theo hướng công nghệ cao để giảm lao động trực tiếp, hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.

(4) Tiếp tục làm tốt công tác quan trắc, cảnh báo môi trường các vùng nuôi tôm tập trung để kịp thời đưa ra khuyến cáo và cảnh báo nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn; đồng thời phục vụ công tác chỉ đạo sản xuất NTTS bền vững.

(5) Thực hiện tốt công tác quản lý giống tôm nước lợ, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Trung ương và các địa phương để quản lý tốt chất lượng tôm giống; chia sẻ kịp thời, thường xuyên thông tin về nguồn gốc, chất lượng giúp bà con nuôi tôm có được con giống chất lượng cao phục vụ sản xuất.

Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT - phát biểu kết luận hội nghị.

(6) Tăng cường thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường dùng trong NTTS; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm (nếu có).

(7) Tổ chức sản xuất theo hướng liên kết (liên kết dọc gữa các nhà với nhau; liên kết ngang giữa các cơ sở sản xuất), sản xuất có chứng nhận chất lượng để sản xuất an toàn, hạ giá thành và đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.

(8) Tích cực phối hợp xử lý, tháo gỡ các rào cản kỹ thuật, phát triển thị trường tiêu thụ cho sản phẩm tôm Việt Nam.

Để vượt qua thách thức và đạt được những mục tiêu đề ra, tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến yêu cầu Cục Quản lý chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường kiểm soát tốt chất lượng, an toàn thực phẩm thủy sản nguyên liệu, kiểm soát tạp chất, tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm tôm nhằm nâng cao chất lượng. Chủ động, thường xuyên đánh giá diễn biến thị trường, đề xuất giải pháp, kịp thời thông tin để người dân biết, có kế hoạch sản xuất phù hợp.

Các địa phương tổ chức liên kết chuỗi sản xuất tôm, đảm bảo chuỗi sản xuất tôm liên hoàn; ngăn chặn kịp thời những sản phẩm như con giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường NTTS không đảm bảo chất lượng tới người tiêu dùng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về an toàn thực phẩm trong NTTS nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm phục vụ chế biến, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Đồng thời, thực hiện tốt kế hoạch sản xuất tôm nước lợ năm 2023; chỉ đạo thực hiện tốt quy định về điều kiện nuôi, đăng ký đối tượng nuôi chủ lực, thực hiện tốt công tác quản lý và tổ chức kiểm tra, kiểm soát điều kiện cơ sở sản xuất và chất lượng giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường NTTS, kiên quyết xử lý sai phạm (nếu có).

Bên cạnh đó, thực hiện có hiệu quả công tác quan trắc, cảnh bảo môi trường để kịp thời khuyến cáo, cảnh báo cho người nuôi; hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật để nuôi tôm hiệu quả, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho người nuôi. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, chuyển giao khoa học kỹ thuật để nhân rộng các mô hình nuôi 2, 3 giai đoạn, nuôi sử dụng chế phẩm sinh học, nuôi tuần hoàn hiệu quả giúp người nuôi, doanh nghiệp giảm thiệt hại...

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đề nghị các doanh nghiệp, người nuôi tôm thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về NTTS, về an toàn thực phẩm, về thú y... Trước mắt, khẩn trương thực hiện đăng ký đối tượng nuôi chủ lực theo quy định tại Điều 36 của Nghị định số 26/2019/NĐ-CP. Xây dựng kế hoạch, chuẩn bị sẵn các điều kiện để chủ động sản xuất trong điều kiện khó khăn như hạn hán, xâm nhập mặn, biến động môi trường dẫn đến dễ phát sinh dịch bệnh, giá vật tư đầu vào tăng cao.

Nâng cao chất lượng sản phẩm, hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi để giảm khâu trung gian, giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tăng cường xúc tiến thương mại đối với tiêu thụ nội địa, nhân rộng các hình thức nuôi có chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, ASC... Tuân thủ các quy định về sử dụng chất cấm, thuốc, hóa chất trong nuôi tôm, chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc.

Hải Đăng

Ý kiến bạn đọc

Tin khác