Tôm Việt đạt kỷ lục mới về tăng trưởng xuất khẩu (24-10-2025)

9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tôm Việt Nam tăng 22% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là mức tăng trưởng mạnh nhất trong vòng 3 năm.
Tôm Việt đạt kỷ lục mới về tăng trưởng xuất khẩu
Ảnh minh họa

Theo Báo điện tử Chính phủ, tháng 9, Việt Nam liên tiếp chịu ảnh hưởng của thiên tai và mưa bão, song ngành nông nghiệp vẫn duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ (đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu). Năm 2025, Việt Nam có nhiều cơ hội phá kỷ lục xuất khẩu. Trong 9 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 52,31 tỷ USD (trong đó, thủy sản 8,33 tỷ USD), tăng 14% so với cùng kỳ năm trước, mở ra cơ hội chạm mốc 70 tỷ USD – mức kỷ lục mới trong lịch sử.   

Việt Nam hiện đàm phán thêm 6 hiệp định thương mại mới với các khu vực Trung Đông (Halal), Mỹ Latin, châu Phi và Trung Á; đồng thời tích cực tháo gỡ rào cản để đáp ứng các quy định khắt khe của EU và kiểm soát nguồn gốc thủy sản của Hoa Kỳ. Các mô hình hợp tác công – tư (PPP) giữa doanh nghiệp quốc tế và nông dân trong ngành thủy sản đang giúp hình thành chuỗi cung ứng minh bạch, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải khí nhà kính.

9 tháng năm 2025, sản xuất thủy sản tăng trưởng ổn định. Số liệu ước tính của Cục Thống kê cho thấy, sản lượng thủy sản đạt 7.261,8 nghìn tấn, tăng 3,2% (riêng tôm tăng 5,8%). Trong đó: sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.977,5 nghìn tấn, tăng 0,5%; sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 4.284,3 nghìn tấn, tăng 5,1%. Nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan nhờ đẩy mạnh mô hình siêu thâm canh và ứng dụng hiệu quả công nghệ cao. Đặc biệt, tôm thẻ chân trắng đạt 719,7 nghìn tấn, tăng 7,1%.

Tôm dẫn đầu về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), các Hiệp định Thương mại do (FTA) tạo động lực lớn cho tăng trưởng xuất khẩu thủy sản. Tính chung 9 tháng, xuất khẩu thủy sản đạt 8,33 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước (tôm là mặt hàng mang về thặng dư lớn nhất). Trong bối cảnh thương mại quốc tế nhiều biết động, kết quả này có được nhờ sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan chức năng, sự linh hoạt của doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các FTA, đặc biệt tận dụng tối đa ưu đãi từ các FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP để mở rộng thị trường.

Tháng 9/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt gần 991 triệu USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục dẫn đầu với gần 410 triệu USD, 9 tháng đạt trên 3,38 tỷ USD. Động lực chủ yếu đến từ sự phục hồi nhu cầu tại các thị trường lớn, sự mở rộng đơn hàng ở các thị trường khu vực, khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp trong cơ cấu sản phẩm/thị trường. Dựa trên kết quả hiện tại, có thể kỳ vọng xuất khẩu thủy sản năm 2025 đạt mốc 10 tỷ USD, thậm chí cao hơn, tương ứng mức tăng trưởng 10 - 12%. Sau giai đoạn nhiều biến động, ngành thủy sản Việt Nam đang phục hồi.

Đối với thị trường EU, Việt Nam có thuận lợi lớn từ Hiệp định EVFTA với việc EU cam kết mở cửa rất mạnh cho thủy sản Việt Nam bằng việc xóa bỏ khoảng 50% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, trong đó phần lớn các sản phẩm thuế cao từ 6 - 22% được xóa bỏ về 0% như hàu, điệp, mực, bạch tuộc, nghêu, sò, tôm sú đông lạnh. Đặc biệt, thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu (tươi, đông lạnh, ướp lạnh) nhập khẩu vào EU cũng được giảm từ mức thuế cơ bản 12-20% xuống 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Như vậy, EVFTA đã tạo ra lợi thế rất lớn về giá cho thủy sản Việt Nam (nhất là tôm).

Xuất khẩu tôm 9 tháng tăng mạnh nhất

9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt hơn 3,4 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2024 — ghi nhận mức tăng trưởng mạnh nhất trong 3 năm lại đây. Động lực chủ yếu đến từ sự phục hồi nhu cầu tại các thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU và khối CPTPP, cùng khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp và trong bối cảnh phải đối mặt với thuế từ Mỹ.

Tôm thẻ chân trắng hiện vẫn dẫn đầu, tiếp tục là sản phẩm chủ lực với kim ngạch hơn 2,2 tỷ USD, chiếm 65% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 9% so với cùng kỳ. Trong đó, nhóm tôm thẻ chân trắng chế biến (HS16) đạt gần 1 tỷ USD, tăng 12%. Tôm sú đạt 343 triệu USD, tăng nhẹ 2%, nhờ nhu cầu ổn định từ Nhật Bản và Trung Quốc ở phân khúc tôm size lớn, tôm sinh thái. Đáng chú ý, tôm loại khác (bao gồm tôm hùm, tôm mũ ni...) tăng mạnh 91%, đạt gần 870 triệu USD, phản ánh xu hướng mở rộng danh mục sản phẩm và nhu cầu cao ở thị trường Trung Quốc, EU và các nước có thu nhập cao.

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, Trung Quốc hiện dẫn đầu. Trung Quốc & Hong Kong tiếp tục là điểm sáng khi đạt 966 triệu USD, tăng 65% so với cùng kỳ, chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước. Nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh nhờ phân khúc tôm sống, tôm hùm và sản phẩm cao cấp. Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, tồn kho nhập khẩu tại Trung Quốc đang tăng nhanh, báo hiệu khả năng điều chỉnh trong quý IV.

Mỹ duy trì vị thế là thị trường lớn thứ ba với 587 triệu USD, tăng nhẹ 4%. Mặc dù nhu cầu tiêu thụ cải thiện, nhưng ngành đang chịu áp lực lớn từ nguy cơ bị áp thuế chống bán phá giá, được công bố cuối năm nay. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ đang thận trọng hơn trong ký kết hợp đồng dài hạn, đồng thời tăng tỷ trọng đơn hàng sang EU và châu Á để giảm rủi ro.

Khối CPTPP đạt gần 941 triệu USD, tăng 34%, nhờ kết quả tích cực tại Nhật Bản, Australia và Canada. Nhật Bản tiếp tục dẫn đầu trong khối với 426 triệu USD, chiếm 12% tổng kim ngạch, phản ánh nhu cầu ổn định với các sản phẩm chế biến tiện lợi và đạt chuẩn bền vững.

Tại EU, kim ngạch đạt 434 triệu USD, tăng 21%. Đức, Bỉ và Hà Lan là các thị trường tăng mạnh, với mức tăng lần lượt 6–28%. Nhu cầu đối với sản phẩm có chứng nhận ASC, hữu cơ, hoặc carbon thấp đang giúp doanh nghiệp Việt mở rộng chỗ đứng trong các chuỗi siêu thị cao cấp. Các thị trường Hàn Quốc, Đài Loan cũng ghi nhận tăng trưởng hai con số (tăng lần lượt 13% và 36%), trong khi Nga và Canada có xu hướng chững lại.

Tại vùng nuôi tôm trọng điểm, giá tôm nguyên liệu duy trì ổn định ở mức cao nhờ nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tăng vào cuối năm, trong khi nguồn cung giảm do đang vào thời điểm nghịch vụ.

Dự kiến, xuất khẩu tôm trong quý cuối năm 2025 sẽ điều chỉnh giảm do những thách thức trong xuất khẩu tôm sang Mỹ. Tuy nhiên, sự kiện Indonesia bị siết xuất khẩu sang Mỹ đang mở ra cơ hội ngắn hạn cho Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Ecuador dồn hàng sang Trung Quốc khiến các thị trường khác như Nhật Bản, EU, Hàn Quốc ít chịu áp lực nguồn cung hơn — tạo điều kiện cho tôm Việt duy trì giá cao trong quý IV. Ngược lại, áp lực cạnh tranh năm 2026 dự kiến sẽ tăng trở lại khi các đối thủ điều chỉnh chính sách. Việc duy trì năng lực cạnh tranh sẽ phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi xanh, số hóa chuỗi cung ứng và đầu tư sản phẩm giá trị gia tăng của Việt Nam.

Hệ sinh thái FTA cho xuất khẩu thủy sản

Mỗi năm, EU ban hành khoảng 180 quy định mới hoặc điều chỉnh liên quan đến nông sản, thực phẩm và thủy sản. Việc nắm bắt sớm và đúng các quy định này là yếu tố then chốt để duy trì khả năng tiếp cận thị trường, tránh rủi ro pháp lý và gián đoạn thương mại. Để tận dụng được các FTA nói chung và EVFTA nói riêng, doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu đang đối diện với một số vấn đề khó khăn.

Bộ Công Thương đang xây dựng hệ sinh thái FTA cho xuất khẩu thủy sản. Khi tham gia hệ sinh thái, người nông dân sẽ được hỗ trợ vốn, kỹ thuật, được giải đáp các vướng mắc và được hỗ trợ đầu ra. Doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu cũng được hưởng các ưu đãi đó và được thông tin, tiếp cận thị trường xuất khẩu.

Để tham gia hệ sinh thái FTA cho xuất khẩu thủy sản, hộ dân phải đáp ứng các tiêu chí là có diện tích nuôi trồng thủy sản phù hợp; đồng ý tham gia các chương trình phát triển bền vững, xây dựng thương hiệu; đồng ý kết nối với doanh nghiệp, đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu chất lượng; cam kết nuôi trồng thủy sản theo đúng tiêu chí quy định. Doanh nghiệp tham gia hệ sinh thái FTA xuất khẩu thủy sản, phải có nguồn khách hàng tiềm năng, ưu tiên doanh nghiệp uy tín, tài chính vững mạnh, có hợp đồng xuất khẩu ổn định; doanh nghiệp phải cam kết phát triển bền vững, cam kết thu mua hàng hóa của nông dân; có hệ thống nhà xưởng, may móc chế biến đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

Sự phối hợp giữa các chủ thể trong quá trình xây dựng hệ sinh thái đều hướng đến mục đích chung đó là giải quyết được bài toán nội bộ, để gia tăng được năng lực của các sản phẩm, ngành hàng và tận dụng được những cơ hội của thị trường mà Việt Nam đã có các FTA. Hệ sinh thái tận dụng FTA cho ngành hàng thủy sản sẽ là cách tiệp cận mới, căn bản, quan trọng giúp doanh nghiệp xuất khẩu và toàn ngành thủy sản Việt Nam tận dụng tốt hơn ưu đãi từ các FTA, đẩy mạnh xuất khẩu.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác