Việt Nam sẽ gia tăng giá trị xuất khẩu thủy sản sang Nhật (26-09-2025)

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2025 tiếp tục tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam sẽ gia tăng giá trị xuất khẩu thủy sản sang Nhật
Ảnh minh hoạ

Thủy sản thế giới

Theo Bản tin Thị trường Nông lâm thủy sản, thị trường thủy sản thế giới hiện đang dư cung, giá cả biến động và có nhiều rào cản thương mại, ngành thủy sản toàn cầu đang bước vào giai đoạn khó khăn, đặc biệt bất lợi với các nhà sản xuất châu Á (trong đó có Việt Nam).

Cuối tháng 8/2025, giá cá ngừ vằn giao tại Bangkok, Thái Lan ổn định ở mức 1.500 - 1.580 USD/tấn. Trong tuần 35 (từ ngày 25 đến 31/8/2025), một số nhà máy đóng hộp nhỏ của Thái Lan đã chốt các hợp đồng ở mức giá cao hơn một chút, nhưng các nhà chế biến lớn vẫn đang giữ nguyên giá mua vào. Trong khi đó, Ê-cu-a-đo đang trong giai đoạn thực hiện lệnh cấm đánh bắt bằng thiết bị dẫn dụ cá (FAD) từ cuối tháng 7/2025, kéo dài 72 ngày. Tại Manta, một số nhà máy đóng hộp đang trả 1.650 USD/tấn cho cá ngừ vằn, mặc dù các chủ tàu đã yêu cầu mức giá 1.700 USD/tấn. Nhu cầu tại khu vực này vẫn ổn định và sản lượng đánh bắt nhìn chung phù hợp với kỳ vọng do lệnh cấm FAD vẫn đang diễn ra. Các nhà máy đóng hộp Ê-cu-a-đo vẫn cần nguyên liệu cá ngừ vằn để đáp ứng các đơn đặt hàng. Điều này đã khiến giá tăng vào đầu tháng 8/2025. Tuy nhiên, giá cá trong tuần cuối của tháng 8/2025 ổn định.

Sản lượng đánh bắt cho thấy tỷ lệ cá ngừ vây vàng cao hơn và sản lượng đánh bắt đạt mức kỷ lục so với những năm trước. Sản lượng đánh bắt cá ngừ vây vàng ở khu vực Đông Thái Bình Dương tăng khoảng 50% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù số lượng tàu đánh bắt ít hơn do lệnh cấm FAD vẫn đang diễn ra.

Tại Man-ta, cá ngừ vây vàng nguyên con đông lạnh cỡ >10kg ở mức 1.900 - 2.000 USD/ tấn tại cảng. Tại Mê-hi-cô, một quốc gia đánh bắt cá ngừ lớn khác, nơi cá ngừ vây vàng thường chiếm khoảng 90% tổng sản lượng, cá ngừ vây vàng cỡ lớn đang được giao dịch ở mức 2.200 USD/ tấn. Tuy nhiên, giá dự kiến sẽ giảm xuống còn 2.100 USD/tấn vào tháng 9/2025 khi sản lượng khai thác tiếp tục tăng. Đội tàu đánh bắt của Mê-hi-cô đã mở rộng kể từ năm 2024, làm tăng sản lượng khai thác. Điều này đã góp phần gây ra tình trạng tắc nghẽn kho bãi, mặc dù sản phẩm vẫn đang được đưa ra thị trường quốc tế, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu nội địa.

Mê-hi-cô vẫn được duy trì mức thuế 0% đối với cá ngừ xuất khẩu sang Hoa Kỳ, một lợi thế so với các nhà sản xuất cá ngừ khác trong khu vực, nhờ Hiệp định giữa Hoa Kỳ, Mê-hi-cô và Ca-na-đa. Trong khi Thái Lan đã bị áp thuế 19%, gần gấp đôi mức 10% được áp dụng vào ngày 2/4/2025, nhưng thấp hơn nhiều so với mức thuế 36% dự kiến. Xuất khẩu hải sản của Ê-cu-a-đo cũng bị ảnh hưởng với mức thuế quan tăng từ mức chung 10% được áp dụng vào ngày 2/4/2025 lên mức mới 15%. Trong khi xuất khẩu của In-đô-nê-xi-a và Việt Nam chịu các mức thuế lần lượt là 19% và 20%.

Theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ, Liên minh châu Âu vừa phê duyệt thêm 102 cơ sở đánh bắt và chế biến thủy sản của Ấn Độ được phép xuất khẩu sang các quốc gia thành viên EU. Đây là bước tiến quan trọng giúp sản phẩm hải sản Ấn Độ tăng khả năng tiếp cận thị trường EU, đặc biệt là tôm nuôi và các loài động vật thân mềm như mực và bạch tuộc.

Tuy nhiên, nhiều nhà nhập khẩu tôm nuôi tại châu Âu lo ngại về thời hạn tháng 9/2026 – thời điểm Ấn Độ phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu mới của Ủy ban châu Âu liên quan đến việc kiểm soát sử dụng kháng sinh trong sản xuất thủy sản. Ấn Độ hiện vẫn chưa có tên trong danh sách các quốc gia được EU phê duyệt hoàn toàn theo quy định mới, điều này khiến một số người mua tại châu Âu cân nhắc điều chỉnh chiến lược nhập khẩu từ đầu năm 2026. Trong nửa đầu năm 2025, Ấn Độ là nước cung cấp tôm lớn thứ hai cho EU, với tổng lượng tôm đông lạnh và tôm chế biến đạt 42.803 tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong báo cáo mới nhất của Rabobank, ngành hải sản toàn cầu đang chịu tác động nặng nề từ căng thẳng địa chính trị và chính sách thuế quan của Hoa Kỳ. Theo đó giá cá hồi và cá tuyết tăng vọt, trong khi thị trường dư thừa cá rô phi và surimi.

Hoa Kỳ đã thông báo áp thuế 35% với cá hồi Ca-na-đa, với 87% sản lượng phụ thuộc vào thị trường này, khiến giá bán tại Hoa Kỳ tăng mạnh, còn nông dân Ca-na-đa lo ngại biên lợi nhuận bị thu hẹp. Với cá thịt trắng, các lệnh trừng phạt Nga đã làm đảo lộn nguồn cung: EU áp thuế 12– 13% với cá minh thái và cá tuyết Nga, Anh đánh thuế 35%, trong khi Hoa Kỳ cấm hoàn toàn từ năm 2024. Điều này khiến giá cá tuyết ở châu Âu tăng mạnh, trái ngược với sự sụt giảm giá surimi tại châu Á khi nguồn cung Nga dồn về khu vực này.

Cá rô phi cũng đối mặt khó khăn lớn như tại Hoa Kỳ, sản phẩm từ Trung Quốc phải chịu thuế nhập khẩu tới 75%, khiến mặt hàng từng rẻ và phổ biến này cũng gặp khó khăn. Theo Rabobank nhận định nguồn cung cá nước ngọt ở Hoa Kỳ sẽ giảm mạnh vì cá tra từ Việt Nam cũng bị áp thuế (20%), trong khi In-đô-nê-xi-a và Bra-xin không đủ khả năng thay thế.

Việt Nam đề nghị Hoa Kỳ xem xét khách quan về thương mại thủy sản

Hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ đang duy trì quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, được xây dựng trên cơ sở tin cậy và cùng có lợi. Việt Nam coi Hoa Kỳ là đối tác thương mại quan trọng, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư Hoa Kỳ. Việt Nam cam kết tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ để giải quyết các vấn đề còn tồn tại theo tinh thần xây dựng và hướng tới tương lai.

Trong thời gian qua, ngành Thủy sản Việt Nam, cùng với Chính phủ và chính quyền địa phương đã nỗ lực mạnh mẽ và liên tục để hiện đại hóa, nâng cao trách nhiệm và tăng cường công tác quản lý nghề cá.

Mới đây, ngày 15/9/2025, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam đã có thư gửi tới Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ đề nghị xem xét khách quan về thương mại thủy sản nhằm tránh những gián đoạn nghiêm trọng đối với thương mại song phương và bảo vệ sinh kế của hàng trăm nghìn ngư dân và người lao động Việt Nam. Trong thư, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng đề nghị Bộ trưởng Howard Lutnick quan tâm, xem xét khách quan để đảm bảo kết quả hợp lý đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam, vốn là những đối tác đáng tin cậy, kinh doanh công bằng tại thị trường Hoa Kỳ trong vụ việc rà soát hành chính lần thứ 19 thuế chống bán phá giá tôm nhập khẩu từ Việt Nam đang diễn ra.

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam dự kiến tăng trưởng trong những tháng cuối năm

Theo thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, tháng 8/2025 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,07 tỷ USD, tăng 9,4% so với tháng 8/2024. Tính chung 8 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt 7,15 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong tháng 8/2025, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Hà Lan, Đài Loan đạt mức tăng trưởng 2 con số, trong đó xuất khẩu sang Thái Lan tăng mạnh nhất, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm 2024.  

8 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm 19,83%; Tiếp theo là Hoa Kỳ chiếm 17,28%; Nhật Bản chiếm 15,17%; Hàn Quốc chiếm 7,54%; Anh chiếm 3,1%; Úc chiếm 2,98%; Các thị trường khác chiếm 34,1%. Trong đó, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng trưởng tới nhiều thị trường như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Thái Lan, Ca-na-đa, Hà Lan, Đức...

Trong những tháng cuối năm 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng với sự phục hồi nhu cầu từ nhiều thị trường, các doanh nghiệp cần tận dụng tốt lợi thế từ các Hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP và UKVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu.

Theo số liệu thống kê từ Trung tâm thương mại thế giới (ITC), 6 tháng đầu năm 2025, Na Uy nhập khẩu 130,7 nghìn tấn thủy sản với trị giá 355,85 triệu USD, giảm 4,4% về lượng, nhưng tăng 10,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Tính về lượng, Anh là thị trường cung cấp thủy sản lớn nhất cho Na Uy, chiếm 39,41%; Tiếp theo là Quần đảo Phê-rô chiếm 21,41%; Đan Mạch chiếm 13,46%; Nga chiếm 9,48%; Grin-len chiếm 2,61%.

Việt Nam là thị trường cung cấp lớn thứ 6 cho Na Uy, chiếm 1,65% trong tổng nhập khẩu thủy sản của Na Uy. Tính về trị giá, Nga là thị trường cung cấp thủy sản lớn nhất cho Na Uy, chiếm 23,8%; Tiếp theo là Anh chiếm 19,43%; Đan Mạch chiếm 11,96%; Grin-len chiếm 6,77%. Việt Nam là thị trường cung cấp lớn thứ 5 cho Na Uy, chiếm 5,47% trong tổng trị giá nhập khẩu thủy sản vào Na Uy.

Na Uy giảm nhập khẩu từ nhiều thị trường (giảm cả về lượng và trị giá) như: Grin-len, Quần đảo Phê-rô, Thụy Điển, Ca-na-đa, Hoa Kỳ... Trong khi đó, Na Uy tăng mạnh nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam với mức tăng 28,2% về lượng và tăng 38,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Điều này cho thấy, thủy sản Việt Nam đang ngày càng được ưa chuộng tại Na Uy. Trong thời gian tới, thủy sản Việt Nam sẽ có cơ hội gia tăng thị phần hơn nữa tại Na Uy.

Cũng theo thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 8 tháng đầu năm 2025 đạt 1,08 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Thống kê sơ bộ, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 7 tháng đầu năm 2025 đạt 122,2 nghìn tấn, trị giá 920,97 triệu USD (tăng 8,2% về lượng và tăng 9,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024). Nhiều mặt hàng xuất sang Nhật Bản tăng trưởng mạnh như: Tôm các loại tăng 30,5% về lượng và tăng 26,6% về trị giá; Mực các loại tăng 13% về lượng và tăng 19,1% về trị giá; Cá tra, basa tăng 12,4% về lượng và tăng 67,5% về trị giá; Cá ngừ các loại tăng 18,9% về lượng và tăng 15,7% về trị giá; Mắm tăng 46,2% về lượng và tăng 116,6% về trị giá; Sò các loại tăng 134,9% về lượng và tăng 146,8% về trị giá; Nghêu các loại tăng 183,1% về lượng và tăng 949% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

Dự báo xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật sẽ tiếp tục tăng trưởng trong thời gian tới bởi nhu cầu phục hồi tại thị trường này, cùng với các lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do như CPTPP và VJEPA tạo điều kiện cho thủy sản Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng tại Nhật Bản. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần đảm bảo các quy định nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm, bao gồm tiêu chuẩn dư lượng kháng sinh đối với thủy sản nuôi trồng và các quy định khác về vệ sinh, kiểm dịch, yêu cầu về truy xuất nguồn gốc...

Ở chiều ngược lại, theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Nhật Bản, 7 tháng đầu năm 2025, nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản đạt 1,06 triệu tấn, trị giá 1.098 tỷ Yên (tương đương 7,4 tỷ USD), giảm 0,6% về lượng, nhưng tăng 1,1% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2024. Trong đó, Trung Quốc là thị trường cung cấp thuỷ sản lớn nhất cho Nhật Bản, chiếm 21,04% về lượng và chiếm 20,54% về trị giá; Chi-lê đứng thứ hai, chiếm 9,39% về lượng và chiếm 11,25% về trị giá. Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ ba cho Nhật Bản, chiếm 7,39% về lượng và chiếm 8,47% về trị giá trong tổng nhập khẩu vào thị trường này, với lượng đạt 78,9 nghìn tấn trị giá 93 tỷ Yên (tương đương 627 triệu USD), tăng 4,4% về lượng và tăng 2,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

Theo chu kỳ, nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản thường tăng vào những tháng cuối năm sẽ tạo điều kiện cho thủy sản Việt Nam gia tăng giá trị tại thị trường này.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác