Theo Báo điện tử Chính phủ, 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu nông lâm thủy sản tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt 39,7 tỉ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nông sản 21,5 tỉ USD (tăng 17%), lâm sản 10,4 tỉ USD (tăng 8,6%), thủy sản 6,1 tỉ USD (tăng 13,8%). Việt Nam đang hướng tới mục tiêu xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt từ 65-70 tỷ USD.
Những thách thức mới về vấn đề thuế quan ở thị trường Mỹ sẽ khiến doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam chịu tác động đáng kể về chi phí và giá thành khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Tuy nhiên, theo các hiệp hội ngành hàng, trong thách thức vẫn mở ra cơ hội mới, nếu các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Trong đó, sự hồi phục mạnh mẽ của thị trường Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản, cùng với tín hiệu gỡ bỏ rào cản kỹ thuật từ EU, mở ra dư địa tăng trưởng cho các dòng sản phẩm chế biến sâu.
Cùng với đó, lợi ích của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đặc biệt có ý nghĩa khi Liên minh Châu Âu (EU) liên tục là một trong 4 thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Các hiệp định thương mại như CPTPP, UKVFTA tiếp tục tạo lợi thế thuế quan vượt trội so với các nước đối thủ. Các mặt hàng giá trị gia tăng các nước khác không sản xuất được là cơ hội lớn để các doanh nghiệp xuất khẩu khai thác lợi thế.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra (phấn đấu kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 70 tỷ USD năm 2025), doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng là lực lượng trực tiếp sản xuất, cần chủ động đề xuất hỗ trợ từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương hoặc các địa phương khi cần thiết.
Về thị trường, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng bên cạnh việc chú trọng các thị trường truyền thống, cần mở rộng khai thác thêm các thị trường tiềm năng, nơi còn nhiều dư địa cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như: Châu Âu, UAE và khu vực lân cận, châu Phi, Nam Mỹ… Cùng với đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần đặc biệt chú ý, quan tâm hơn tới thị trường nội địa có hơn 100 triệu dân với sức mua và mức tiêu dùng ngày càng tăng nhanh.
Về vấn đề thuế quan của Mỹ, việc áp thuế này không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các quốc gia xuất khẩu vào Mỹ, chênh lệch không quá lớn. Trong khi đó, Mỹ vẫn có nhu cầu cao với một số sản phẩm Việt Nam, trong đó có mặt hàng tôm - vốn được đánh giá đứng đầu thế giới về chất lượng, đặc biệt khi chế biến sâu.
Tập trung nhóm sản phẩm chế biến, hữu cơ, đạt chứng nhận bền vững
Việt Nam là một trong những đối tác cung ứng quan trọng xuất khẩu nông lâm thủy sản sang EU. Với dân số 450,4 triệu người (năm 2025), GDP đạt 19,4 nghìn tỷ USD (2024), chiếm gần 18% toàn cầu, cùng mức chi tiêu cho thực phẩm và đồ uống lên tới 1.100 tỷ euro/năm, EU được đánh giá là một trong những thị trường nông sản lớn nhất, khó tính nhất thế giới.
Năm 2024, EU nhập khẩu 348 tỷ USD nông lâm thủy sản và dự báo 2025 tăng lên gần 364 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ lực gồm rau quả, thủy sản, cà phê… Trong bức tranh này, Việt Nam là một trong những đối tác cung ứng quan trọng xuất khẩu nông lâm thủy sản sang EU tăng từ 3,76 tỷ USD năm 2019 lên 5,44 tỷ USD năm 2024.
Chỉ riêng 7 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang EU đã đạt tới 4,73 tỷ USD (tăng mạnh 49% so với cùng kỳ năm ngoái). Thủy sản và cà phê, rau quả… là các mặt hàng mũi nhọn. Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bỉ và Italia là những thị trường nhập khẩu lớn nhất các mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam.
Tuy nhiên, giá trị này mới chỉ chiếm 2% tổng nhập khẩu nông sản của EU. Điều đó đồng nghĩa với việc nông sản Việt còn bỏ ngỏ tới 98% thị phần – dư địa hết sức lớn nhưng cũng đầy thách thức.
Có nhiều nguyên nhân khiến hàng hóa Việt Nam chưa khai thác hết dư địa: EU chưa cấp phép cho sản phẩm động vật trên cạn từ Việt Nam. Thủy sản vẫn bị ảnh hưởng bởi thẻ vàng IUU. Khi nhiều quốc gia Nam Mỹ, châu Phi, châu Á dịch chuyển nguồn cung sang EU nhờ ưu đãi thuế quan, hàng Việt Nam đang chịu áp lực lớn về giá. Khoảng cách địa lý xa, chi phí logistics cao, khiến giá thành đội lên, giảm sức cạnh tranh. Xuất khẩu chủ yếu hàng thô, sơ chế, giá trị gia tăng thấp, trong khi EU ưu tiên hàng chế biến, hữu cơ, đạt chứng nhận bền vững.
EU chú trọng an toàn thực phẩm, phát triển bền vững, truy xuất nguồn gốc. Trong khi đó EU sẽ thực thi Quy định chống mất rừng (EUDR) từ ngày 31/12/2025, yêu cầu minh bạch chuỗi cung ứng. Dù Việt Nam được xếp vào nhóm rủi ro thấp, doanh nghiệp vẫn cần chuẩn bị kỹ lưỡng… cũng là những điểm khó cho nông lâm thủy sản Việt Nam tiến sâu vào thị trường này.
Tăng cường xuất khẩu nông sản “xanh - sạch - bền vững”
Sau 5 năm thực thi Hiệp định EVFTA, gần 100% dòng thuế đã được xóa bỏ. So với các đối thủ phải chịu thuế MFN từ 4% trở lên, hàng Việt Nam có ưu thế rõ rệt. Ở lĩnh vực thủy sản, có hơn 600 doanh nghiệp của Việt Nam được cấp mã xuất khẩu vào EU, đặc biệt là sản phẩm giá trị gia tăng như tôm sú cao cấp, tôm sinh thái đạt chứng nhận ASC.
Trước yêu cầu ngày càng khắt khe, nhiều doanh nghiệp Việt đã chủ động tái cấu trúc. Cụ thể như đối với ngành thủy sản, hiện các doanh nghiệp đang tập trung vào tôm sinh thái, tôm ASC, hướng đến phân khúc cao cấp.
Về mặt giá trị, để nâng thị phần từ 2% lên mức xứng đáng với tiềm năng xuất khẩu nông lâm thủy sản, Việt Nam sẽ áp dụng một số giải pháp như mở cửa toàn diện thị trường; nâng cao tiêu chuẩn chất lượng, tăng diện tích hữu cơ, truy xuất nguồn gốc điện tử, áp dụng sản xuất sạch và công nghệ chế biến sâu.
Tận dụng EVFTA sẽ đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm có ưu thế thuế quan như sản phẩm chế biến, tôm sinh thái; Phát triển dịch vụ hậu cần lạnh, mở tuyến vận tải trực tiếp sang EU để tiết giảm chi phí và thời gian; Quảng bá nông sản Việt gắn với hình ảnh “xanh - sạch - bền vững”. Đồng thời, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tham gia hội chợ nông sản lớn tại EU.
EU chi mỗi năm gần 102 tỷ USD cho nhập khẩu rau quả, 26 tỷ USD nhập khẩu cà phê, 60 tỷ USD nhập khẩu thủy sản... Trước mắt, Việt Nam đang đứng trước dư địa vàng nếu tận dụng lợi thế EVFTA, nâng chất lượng sản phẩm, phát triển bền vững và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thương hiệu nông sản Việt hoàn toàn có thể tiến xa, từ vị thế một nhà cung ứng vươn lên trở thành đối tác chiến lược của EU.
Thành tựu và triển vọng sau 5 năm triển khai EVFTA
Hiệp định EVFTA, có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, sau 5 năm thực thi đã mang lại nhiều kết quả tích cực cho Việt Nam, đặc biệt là trong việc thúc đẩy xuất khẩu sang EU và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ EU. Hiệp định này đã đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và cải thiện môi trường kinh doanh.
Theo thông tin từ Cổng Thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Môi trường, EU luôn là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam, không chỉ về thương mại mà còn trong đầu tư, khoa học công nghệ và hợp tác phát triển. EVFTA tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng thương mại nông lâm thủy sản, hỗ trợ cải cách thể chế và định hướng sản xuất theo hướng xanh, bền vững.
Sau 5 năm thực thi EVFTA, xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang EU đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, nhưng nhờ những ưu đãi thuế quan và cơ hội thị trường mà EVFTA mang lại, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản sang EU vẫn tăng trưởng tích cực, từ 3,76 tỷ USD năm 2019 lên 5,437 tỷ USD năm 2024, tương đương mức tăng 42,95%. Tính chung cả giai đoạn 2019 – 2024, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 8,3%.
Những lợi ích do Hiệp định mang lại đặc biệt có ý nghĩa khi EU liên tục là một trong 4 thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Điều này khẳng định việc triển khai EVFTA hiệu quả đã thúc đẩy tăng kim ngạch, góp phần đảm bảo nguồn cung ứng nông sản thực phẩm ổn định, ứng phó với những yếu tố bất định bên ngoài xảy ra cho thị trường EU. Từ đó đem lại lợi ích chung to lớn cho cả Việt Nam và EU.
Việt Nam mong muốn mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các mặt hàng nông lâm thủy sản trọng điểm, có lợi thế chiến lược nhờ các cam kết cắt giảm thuế quan trong EVFTA. Đây sẽ là giải pháp quan trọng giúp cải thiện thương mại song phương với EU, duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu tích cực, đồng thời hỗ trợ Việt Nam củng cố vị thế trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Một số nhóm sản phẩm có tiềm năng mở rộng tại thị trường EU bao gồm: thủy sản chế biến có giá trị gia tăng, cà phê chế biến, rau quả chế biến...
Với thị trường hơn 100 triệu dân và đang thực thi 17 FTA, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về vật tư, nguyên liệu đầu vào cũng như phát triển hệ thống logistics phục vụ nông nghiệp. Doanh nghiệp hai bên cần tận dụng tối đa lợi ích của EVFTA để đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu, tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ EU phục vụ sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông lâm thủy sản, hướng đến mô hình nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thời gian tới, Việt Nam kỳ vọng thu hút thêm nhiều dòng vốn đầu tư chất lượng cao từ các quốc gia EU vào lĩnh vực nông nghiệp, qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường khắt khe của thị trường Châu Âu. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cam kết tiếp tục đồng hành, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy hợp tác thực chất với các đối tác EU, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững ngành nông lâm thủy sản Việt Nam.
EU đánh giá cao những nỗ lực và kết quả mà Việt Nam đạt được trong 5 năm thực hiện EVFTA. Đặc biệt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai nhiều chính sách có hiệu quả để nâng cao chất lượng nông sản và cải thiện hệ thống kiểm soát chất lượng, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường EU. Đồng thời, Việt Nam đẩy mạnh các cam kết về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, từ đó tạo dựng niềm tin từ phía Châu Âu, củng cố mối quan hệ thương mại song phương ngày càng phát triển bền vững.
Các hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP, UKVFTA đã tạo lợi thế thuế quan vượt trội so với các nước đối thủ của Việt Nam. Những mặt hàng giá trị gia tăng mà các nước khác không sản xuất được chính là cơ hội để các doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam khai thác lợi thế.
Ngọc Thúy - FICen