Xuất khẩu nông lâm thủy sản tiếp tục thặng dư mạnh (08-08-2025)

Thặng dư thương mại nông lâm thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu khi đạt 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu nông lâm thủy sản tiếp tục thặng dư mạnh
Ảnh minh hoạ

Xuất khẩu 7 tháng đạt gần 40 tỷ USD

Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) tháng 7 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 6,01 tỷ USD, tăng 13,4% so với tháng 7 năm 2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 7 tháng đầu năm 2025 đạt 39,68 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2024.

Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 21,49 tỷ USD, tăng 17%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 6,06 tỷ USD, tăng 13,8%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 10,38 tỷ USD, tăng 8,6%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,4 tỷ USD, tăng 30,2%; giá trị xuất khẩu muối đạt 6,4 triệu USD, tăng 2,2 lần.

Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,6%. 2 thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,3% và 15,1%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3,1% và 1,3%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 3,3%; châu Mỹ tăng 14,7%; châu Âu tăng 43,1%; châu Phi tăng 88,9%; và châu Đại Dương tăng 4,4%.

  Xét theo thị trường cụ thể, Hoa Kỳ với thị phần 21%, Trung Quốc với thị phần 18,4%, và Nhật Bản với thị phần 7,2%, là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 12,1%, Trung Quốc tăng 3,6%, và Nhật Bản tăng 23,6%.

Nhiều mặt hàng chủ lực đã ghi nhận kết quả tích cực: Cà phê đạt 1,1 triệu tấn và 6 tỷ USD, tăng 7,6% về khối lượng và tăng 65,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Cao su đạt 893,8 nghìn tấn và 1,61 tỷ USD, giảm 2,1% về khối lượng nhưng tăng 13,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Gạo đạt 5,5 triệu tấn và 2,81 tỷ USD, tăng 3,1% về khối lượng nhưng giảm 15,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Rau quả đạt 3,92 tỷ USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2024; Hạt điều đạt 409,6 nghìn tấn và 2,79 tỷ USD, giảm 3,3% về khối lượng nhưng tăng 17,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024; chăn nuôi đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2024.

Riêng về mặt hàng thuỷ sản, giá trị xuất khẩu trong tháng 7 năm 2025 ước đạt 950 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 đạt 6,06 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2024.

Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 19,6%, 17,6% và 15,3%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 6 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Trung Quốc tăng 47,9%, thị trường Hoa Kỳ tăng 14,5%, thị trường Nhật Bản tăng 11,1%.

Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Braxin với mức tăng 77,1% và giảm mạnh nhất ở thị trường Nga với mức giảm 3,4%.  

Nhập khẩu 7 tháng đạt trên 28 tỷ USD

Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Môi tường, tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS tháng 7 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 4,26 tỷ USD, tăng 12,1% so với tháng 7 năm 2024; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS 7 tháng đầu năm 2025 đạt 28,16 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2024.

Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản đạt 17,22 tỷ USD, tăng 13,5%; giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 2,55 tỷ USD, tăng 22,8%; giá trị nhập khẩu thủy sản đạt 1,88 tỷ USD, tăng 31,1%; giá trị nhập khẩu lâm sản đạt 1,99 tỷ USD, tăng 27,7%; giá trị nhập khẩu đầu vào sản xuất đạt 4,5 tỷ USD, tăng 2,1%; giá trị nhập khẩu muối đạt 22,3 triệu USD, tăng 9%.

Xét theo vùng lãnh thổ, Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng NLTS nhiều nhất từ các thị trường thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ với thị phần lần lượt là 30,7% và 24,2%. Thị phần của 3 khu vực châu Âu, châu Phi, và châu Đại Dương nhỏ, lần lượt là 4,8%, 3,9%, và 3,3%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 từ khu vực châu Á tăng 19,6%; châu Mỹ tăng 11,2%; châu Âu tăng 17,9%; châu Phi tăng 13,4%; và châu Đại Dương giảm 1,7%.

Theo thị trường cụ thể, Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Campuchia, là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng NLTS lớn nhất cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 9,3%, 9,2%, và 7,6%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Trung Quốc tăng 10,5%, Hoa Kỳ tăng 28,3%, và Campuchia tăng 41,6%.

Riêng giá trị nhập khẩu thủy sản tháng 7 năm 2025 ước đạt 300 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu hàng thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 đạt 1,88 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm 2024.

Nguồn nhập khẩu hàng thủy sản chính là các thị trường Ấn Độ, Inđônêxia và Nauy với thị phần lần lượt là 14,9%, 14,8% và 11,1%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu hàng thủy sản 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Ấn Độ tăng 86,2%, thị trường Inđônêxia tăng 77,6%, thị trường Nauy tăng 13,8%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Đan Mạch với mức tăng 2,5 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Canađa với mức giảm 14,8%.

Xuất siêu hơn 11 tỷ USD

Cán cân thương mại NLTS Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lâm sản, thủy sản và nông sản là 3 nhóm hàng có cán cân thương mại 7 tháng đầu năm 2025 ở trạng thái thặng dư. Cụ thể, nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 8,39 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2024; nhóm thủy sản thặng dư 4,18 tỷ USD, tăng 7,5% và nhóm nông sản thặng dư 4,28 tỷ USD, tăng 33,4%. Trong khi đó, cán cân thương mại 3 nhóm hàng còn lại ở trạng thái thâm hụt như nhóm đầu vào sản xuất; sản phẩm chăn nuôi và muối.

Đến nay, Ngành nông nghiệp đang có 6 mặt hàng NLTS có thặng dư thương mại ước tính 7 tháng đầu năm 2025 đạt trên 1 tỷ USD gồm: gỗ và sản phẩm gỗ thặng dư 7,7 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; cà phê thặng dư 5,78 tỷ USD, tăng 66%; hàng rau quả thặng dư 2,47 tỷ USD, giảm 7,1%; tôm thặng dư 2,08 tỷ USD, tăng 16,3%; gạo thặng dư 1,81 tỷ USD, giảm 30%; cá tra thặng dư 1,11 tỷ USD, tăng 8,3%.

Những con số này tích cực này cho thấy sự nỗ lực và khả năng thích ứng của ngành nông lâm, thủy sản Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của việc đa dạng hóa thị trường và nâng cao giá trị sản phẩm.

Bên cạnh đó, ngành cũng có 5 mặt hàng NLTS có thâm hụt thương mại ước tính 7 tháng đầu năm 2025 cao nhất gồm: thức ăn gia súc và nguyên liệu; bông các loại; chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt; ngô; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật.

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác