Phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông lâm thủy sản trong thời kỳ hội nhập (25-07-2019)

Ngày 24/7, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra hội thảo “Phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản trong thời kỳ hội nhập”.
Phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông lâm thủy sản trong thời kỳ hội nhập

Theo Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, trong 10 năm trở lại đây công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng đạt khoảng 5 - 7%/năm. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng mạnh, bình quân tăng khoảng 8-10% một năm, riêng năm 2018 đạt mức kỷ lục 40,02 tỷ USD.  

Hiện nay, đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản có công suất thiết kế đảm bảo chế biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu nông sản/năm, có trên 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu; ngoài ra còn có hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ, hộ gia đình làm nhiệm vụ sơ chế, chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa. Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản đã nâng cao giá trị hàng nông sản Việt Nam, góp phần xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giúp nông dân xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Sản phẩm chế biến nông lâm thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu tới trên 180 nước và vùng lãnh thổ, kể cả những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản... Một số ngành hàng hoặc sản phẩm có thiết bị chế biên hiện đại, mang tầm của khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, sự phát triển của ngành chế biến nông lâm thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng, còn bộc lộ những tồn tại, nút thắt trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, như: Năng lực chế biến một số ngành hàng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất nguyên liệu và thị trường tiêu thụ; Công nghệ chế biến nông lâm thủy sản chưa cao, chủ yếu là sản phẩm thô, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp (tính chung khoảng 15 - 20%), chủng loại sản phẩm chế biến chưa phong phú; Chất lượng nguyên liệu và sản phẩm chế biến còn thấp, tiềm ẩn nguy cơ không đảm bảo an toàn thực phẩm; Tổ chức liên kết sản xuất - chế biến và tiêu thụ còn lỏng lẻo, chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp chế biến với sản xuất nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.

Theo các diễn giả tại hội thảo, vẫn còn tình trạng phải giải cứu nông sản do một số mặt hàng trông trọt, sản xuất ra không tiêu thụ được. Trong khi đó, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản vẫn được dự báo là có tiềm năng rất lớn trong thời gian tới. Thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản của Việt Nam được đánh giá là còn rất nhiều dư địa để phát triển.

Với mục tiêu đến năm 2030, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 65 - 70 tỷ USD (bằng 200% so với hiện nay), không cách nào khác phải có sự liên kết và chế biến sâu để góp phần tăng nhanh giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu, làm cơ sở thúc đẩy sản xuất nông lâm thủy sản phát triển.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức, đó là: Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu, đe dọa sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng lớn đến nguyên liệu phục vụ chế biến; Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chưa thật sự hình thành một nền nông nghiệp lớn.

Nguyên liệu phục vụ chế biến thiếu ổn định về chất lượng và an toàn thực phẩm nhất là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh trong chăn nuôi;  Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thấp, trong khi các nguồn lực (vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, năng lực quản trị và hội nhập) còn rất kém, hạn chế đến quá trình đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản phẩm; Thị trường thế giới nhiều biến động, trong khi nông lâm thủy sản Việt Nam còn phụ thuộc quá lớn vào một hoặc một số thị trường. Ngành công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics ở Việt Nam chưa phát triển, chí phí của nền kinh tế cao so với các quốc gia khác.

Phần lớn các doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn cung nguyên liệu đảm bảo về số lượng, chất lượng. Liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất - chế biến - tiêu thụ của các ngành hàng phần lớn thiếu chặt chẽ (ngoại trừ một số ngành hàng đã tổ chức tốt khâu chế biến gắn với sản xuất nguyên liệu như mía đường, cá tra, tôm).

Khả năng chế biến đối với một số ngành hàng còn yếu, chưa sử dụng hết công suất chế biến, chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là vào cao điểm của mùa vụ như rau quả, thịt (số lượng đưa vào chế biến chỉ chiếm 5 - 10% sản lượng); mía đường, lúa gạo, cà phê, tiêu, điều, sắn, thủy sản (gây tổn thất sau thu hoạch). Trình độ công nghệ chế biến nhìn chung ở mức độ trung bình của thế giới; nhiều cơ sở chế biến của nhiều ngành hàng có tuổi đời trên 15 năm (chiếm trên 70%) với thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp... 

Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thủy sản cần có một sự hiểu biết sâu rộng về các thị trường phát triển nhập khẩu nông lâm thủy sản tiềm năng. Điều này không những tạo cơ hội cho chính doanh nghiệp có chiến lược tiếp cận thị trường đó phù hợp mà còn định hướng cho nông dân, người sản xuất về các tiêu chuẩn nông lâm thủy sản đủ điều kiện để xuất khẩu.

Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cần tập trung nghiên cứu nhu cầu, quy định của thị trường nhập khẩu để hướng dẫn, phối hợp với người nông dân tạo sản phẩm nông lâm thủy sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Cũng như doanh nghiệp phải tìm hiểu tâm lý tiêu dùng mục tiêu, đầu tư kỹ thuật để có thể thiết kế, chế biến và đóng gói sản phẩm phù hợp, gia tăng thêm giá trị cho sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản phẩm và tăng thêm lợi nhuận xuất khẩu.

NN

Ý kiến bạn đọc

Tin khác