Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 5 tháng đầu năm tăng cao do hầu hết các nhóm hàng nông lâm thủy sản đều tăng. Đóng góp vào kết quả này có: Nông sản 13,11 tỷ USD, tăng 27,7%; lâm sản 6,58 tỷ USD, tăng 22,7%; thủy sản 3,6 tỷ USD, tăng 6,5%. Hầu hết các mặt hàng nông lâm thủy sản chủ lực đều có giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm trước: Gỗ và sản phẩm gỗ 6,14 tỷ USD, tăng 23,6%; gạo 2,65 tỷ USD, tăng 38,2%, với lượng 4,15 triệu tấn; tôm 1,3 tỷ USD, tăng 7,5%...
Về thị trường xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản vào các thị trường đều tăng. Trong đó: xuất khẩu sang châu Á 11,31 tỷ USD (tăng 17,5%); châu Mỹ 5,4 tỷ USD (tăng 23,1%); châu Âu 3,2 tỷ USD (tăng 39,4%); châu Phi 459 triệu USD (tăng 26,1%) và châu Đại Dương 341 triệu USD (tăng 24,8%). Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất. Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Mỹ chiếm 20,6%, tăng 23,9%; Trung Quốc chiếm 19,2%, tăng 8,6% và Nhật Bản chiếm 6,7%, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh những thị trường truyền thống kể trên, xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam cũng mở rộng ra các thị trường ngách, được đánh giá có rất nhiều tiềm năng như: Úc, Singapore, Halal (các nước Hồi giáo), châu Phi và các nước Mỹ Latinh.
Thay đổi tư duy sản xuất
Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan, phát triển bền vững ngành Nông nghiệp theo cách hiểu đơn thuần là không sử dụng phân bón hóa học, các chất bảo vệ thực vật, hóa chất độc hại gây ô nhiễm đất,gây ô nhiễm môi trường nhưng vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
Với những kết quả xuất khẩu nông lâm thủy sản 5 tháng đầu năm đạt được, Thứ trưởng Bộ NN&&PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, đạt kết quả này do thời gian qua, Bộ và toàn ngành Nông nghiệp đã chủ động, tích cực, sáng tạo trong công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương quyết liệt thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra; tiếp tục chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành; thúc đẩy tích hợp đa giá trị trong sản phẩm nông lâm thủy sản; chuyển từ chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển các chuỗi ngành hàng.
Bên cạnh đó, các giải pháp khơi thông thị trường, ký kết các đơn hàng mới đã có hiệu quả, kết quả tốt nên tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 21%. Thời điểm này, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã có đơn hàng đến tháng 8, thậm chí có doanh nghiệp đã nhận đơn hàng đến cuối năm 2024.
Ngoài phục vụ thị trường 100 triệu dân trong nước, ngành Nông nghiệp sẽ triển khai các đề án thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản sang các thị trường: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, châu Âu. Đồng thời, mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng như các nước Hồi giáo Halal, Trung Đông, châu Phi... Đồng thời, tận dụng các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới; phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.
Thủy sản hướng tới mục tiêu xuất khẩu trên 10 tỷ USD
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tháng 5/2024, xuất khẩu cá ngừ, cua, ghẹ tiếp tục bứt phá mạnh mẽ (cá ngừ tăng 36%, cua ghẹ và giáp xác khác tăng 92%). Cùng với xu hướng tăng giá trị xuất khẩu còn có các nhóm thủy sản như: nhuyễn thể có vỏ (tăng 66%) và cá tra (tăng 10%); mực-bạch tuộc và cá các loại khác cũng tăng nhẹ (3%). Riêng mặt hàng tôm thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái (giảm 1%).
5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, là kết quả đáng khích lệ trên con đường phục hồi và phát triển của ngành. Cụ thể, lũy kế 5 tháng, xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 3,6 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong số các sản phẩm chính thì nhuyễn thể chân đầu (mực, bạch tuộc) và cá các loại (trừ cá tra và cá ngừ) có giá trị xuất khẩu thấp hơn cùng kỳ năm trước, với mức giảm lần lượt là -2% và -3%. Trong khi đó, xuất khẩu tôm và cá tra tăng nhẹ, tôm tăng 7% và cá tra tăng 3%. Đặc biệt, nhóm hàng cua ghẹ tăng trưởng mạnh nhất (+84%), cá ngừ cũng tăng trưởng tích cực (+25%), xuất khẩu nhuyễn thể có vỏ tăng 18%.
Trong top 5 thị trường hàng đầu của thủy sản Việt Nam, Mỹ là thị trường có sự tăng trưởng mạnh nhất với mức tăng 7% trong 4 tháng đầu năm 2024. Xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng nhẹ 2%. Xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản và EU gần như tương đương mức cùng kỳ năm trước.
Ngoài những vấn đề địa chính trị, kinh tế thế giới, ngành Thủy sản Việt Nam đang đối mặt với tình hình thiếu hụt nguyên liệu cả nuôi trồng và khai thác. Ngành nuôi trồng thủy sản đang bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa; các biến động từ quy hoạch đất cho sản xuất tại nhiều địa phương cũng như sự thiếu đồng bộ trong những quy hoạch về sử dụng đất chính là thách thức lớn đối với doanh nghiệp và người nuôi trồng thủy sản. Cùng với đó, biến đổi khí hậu cũng là một trong những vấn đề cấp bách nhất hiện nay, tác động tiêu cực đến hoạt động nuôi trồng thủy sản. Cụ thể, tình hình nắng nóng kéo dài đã ảnh hưởng đến khả năng thích nghi sinh trưởng và phát triển, làm suy giảm sức đề kháng, tăng nguy cơ dịch bệnh dẫn đến hiệu quả nuôi kém.
Lĩnh vực khai thác cũng gặp không ít khó khăn khi nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, sản lượng khai thác không đủ đáp ứng nhu cầu khiến Việt Nam phải tìm kiếm thêm nguồn cung từ nhập khẩu. Tuy nhiên, quy định của thị trường EU và các quy định mới của Việt Nam liên quan đến khai thác hải sản IUU đang khiến cho nút thắt nguyên liệu càng thêm tắc nghẽn.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP cho rằng, xuất khẩu thủy sản trong nửa cuối năm 2024 sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Với ngành tôm, các thách thức là thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá tại thị trường Mỹ. Giá thành tôm nguyên liệu của Việt Nam vẫn cao hơn đáng kể so với các nước sản xuất lớn khác (như Thái Lan, Ấn Độ, Ecuador). Chẳng hạn, tôm thẻ chân trắng cỡ 70 con/kg tại đầm của Việt Nam trong năm nay đang cao hơn khoảng 15.000 - 20.000 đ/kg so với tôm cùng cỡ của Thái Lan, cao hơn 20.000 - 30.000 đ/kg so với tôm Ấn Độ và cao hơn 30.0000 - 35.000 đ/kg so với tôm Ecuador.
Đối với ngành hàng cá tra, thách thức chính là giá xuất khẩu đang thấp, thị trường EU tiêu thụ chậm, thị trường Trung Quốc không ổn định, còn tại thị trường Mỹ là những lo ngại về vụ kiện chống bán phá giá đang bước vào giai đoạn rà soát hành chính lần thứ 20. Trong khi đó, "thẻ vàng" IUU vẫn đang là một gánh nặng với các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.
Xung đột ở Biển Đỏ khiến giá cước vận tải tăng cao, xung đột thương mại giữa các nước làm xáo trộn dòng chảy thương mại thủy sản, tồn kho lớn ở các thị trường nhập khẩu… cũng là những thách thức lớn đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản trong những tháng cuối năm.
Nhiều cơ hội được mở ra
VASEP đánh giá, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn như trên, xuất khẩu thủy sản vẫn đạt được tăng trưởng 6,5% trong 5 tháng đầu năm 2024 là kết quả đáng khích lệ trên con đường phục hồi và phát triển của ngành. Dự báo xuất khẩu thủy sản nửa đầu năm 2024 sẽ đạt 4,4 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu tôm đạt 1,65 tỷ USD; cá tra đạt 910 triệu USD; cá ngừ đạt 457 triệu USD; mực, bạch tuộc đạt 294 triệu USD; cua ghẹ đạt 119 triệu USD; nhuyễn thể có vỏ đạt gần 74 triệu USD.
Những cơ hội lớn cho xuất khẩu thủy sản được lãnh đạo VASEP nhìn nhận vẫn còn khá tích cực. Đặc biệt cơ hội này thể hiện khá rõ ở ngành tôm. Trước hết, tôm Ecuador phải đối mặt với những thách thức đáng kể, bao gồm việc hải quan Trung Quốc tăng cường kiểm tra và từ chối dán nhãn sulfite, thuế chống trợ cấp mới ở Mỹ... Tôm Ấn Độ thì đang đối mặt nguy cơ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ sau khi một nhà máy sản xuất và xuất khẩu tôm lớn của nước này trở thành tâm điểm của một loạt cáo buộc liên quan đến các tài liệu giả mạo, cố tình vận chuyển tôm dương tính với kháng sinh sang Mỹ và ngược đãi công nhân...
Một lợi thế lớn khác của thủy sản Việt Nam là nhu cầu sử dụng sản phẩm giá trị gia tăng ngày càng cao. Tại các triển lãm thủy sản quốc tế ở Mỹ và EU năm nay, các sản phẩm giá trị gia tăng được khách hàng đặc biệt quan tâm. Việt Nam lại có lợi thế về trình độ chế biến thủy sản giá trị gia tăng, tay nghề của người lao động cao.
Liên quan đến mặt hàng cá tra, ông Ong Hàng Văn, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản Trường Giang (tỉnh Đồng Tháp) cho biết, do sản lượng cá tra nguyên liệu không tăng trong khi nhu cầu tăng nên giá sẽ tăng lên. Trung Quốc là thị trường lớn nhất của cá tra Việt Nam hiện nay đang bắt đầu mua các sản phẩm giá trị cao. Ông Văn dự đoán từ nay đến cuối năm 2024, giá cá tra xuất khẩu sẽ tăng từ 5-10%. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra của Việt Nam không nên vội vàng ký các hợp xuất khẩu giá thấp; trái lại, cần bình tĩnh theo dõi sát tình hình thị trường để bán được với giá tốt hơn.
Bà Nguyễn Thị Thu Sắc - Chủ tịch VASEP nhận định: Để đạt mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ USD trong năm 2024, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần thích nghi và điều chỉnh kế hoạch hoạt động phù hợp với bối cảnh của thị trường. Trong đó, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để tránh sự phụ thuộc vào một thị trường, đồng thời tăng cường xuất khẩu vào các thị trường mới, hướng đến mở rộng và đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh công tác quảng bá hình ảnh sản phẩm đến người tiêu dùng, xây dựng hình ảnh và độ nhận diện cho thủy sản Việt Nam, đồng thời cập nhật thông tin từ các thị trường, đánh giá đúng diễn biến tình hình, qua đó có được phản ứng thích hợp và kịp thời nhất.
Ngọc Thúy – FICen