Sử dụng kháng sinh đúng cách và hiệu quả (24-12-2018)

Tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra nghiêm trọng trong nuôi trồng thủy sản do phần lớn các chất hữu cơ dư thừa từ thức ăn, phân và các rác thải khác.  Việc sử dụng một số loại hóa chất, thuốc và chế phẩm sinh học không đúng cách có thể tạo ra lượng dư thừa các hóa chất, kháng sinh đọng lại ở đáy ao, có thể gây ra những hậu quả xấu. Do đó, người nuôi tôm cần hiểu bản chất, cơ chế hoạt động và các tác hại của những chất này để có thể sử dụng đúng liều, đúng cách, đảm bảo giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi trồng thủy sản.
Sử dụng kháng sinh đúng cách và hiệu quả
Ảnh minh họa

Kháng sinh là thuốc có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp trong điều kiện nhân tạo. Chúng có khả năng tiêu diệt hoặc kìm hãm các vi sinh vật. Vì thế, kháng sinh được dùng để trị các bệnh nhiễm khuẩn cho cả ở người, vật nuôi và cây trồng. Nếu dựa vào cơ chế tác động, người ta có thể phân kháng sinh thành 2 nhóm: diệt khuẩn và ức chế khuẩn.

Nhóm diệt khuẩn có khả năng tiêu diệt hẳn vi khuẩn gây bệnh (như Rifamycin hay các kháng sinh thuộc nhóm Quinolones). Nhóm ức chế khuẩn chỉ kìm hãm hoặc ức chế sự phát triển của vi khuẩn chứ không tiêu diệt (như Erythromycin, Spiramycin, Oxytetracycline hoặc các kháng sinh thuộc nhóm Sulphonamides). Cần lưu ý, kháng sinh tiêu diệt cả các vi khuẩn có lợi trong đường ruột của tôm nếu được trộn vào thức ăn, khiến cho tôm chậm lớn hoặc chúng có thể diệt các vi khuẩn có lợi trong môi trường nếu đưa vào nước ao. Kháng sinh không diệt được virus. Vì thế, với các bệnh do virus gây ra như đốm trắng, Taura, đầu vàng, tôm còi MBV hay hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô… thì không thể sử dụng kháng sinh để phòng hoặc trị.

Chỉ có một số nhóm kháng sinh được phép sử dụng cho mục đích nuôi trồng thủy sản, bao gồm: Tetracycline (như Oxytetracycline): có tác dụng kìm hãm cả vi khuẩn Gram dương và Gram âm; Quinolones (như Sarafloxacin): có cả tác dụng diệt hoặc ức chế vi khuẩn thuộc nhóm Gram dương; Macrolides (như Erythromycin): có thể dùng kết hợp với tetracycline và rifampicine; Sulphonamides: được dùng chung với trimethoprim hay methoprim.

Việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, không đúng cách có thể dẫn đến nhiều tác hại như: vi khuẩn kháng thuốc khiến việc phòng trị bệnh không còn tác dụng; ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng; thay đổi hệ vi sinh vật tự nhiên, gây mất cân bằng sinh thái hoặc gây hại cho các loài sinh vật tự nhiên. Ngoài ra, sản phẩm tôm nuôi nếu có dư lượng kháng sinh không được phép sử dụng sẽ bị cấm tiêu thụ và xuất khẩu. Trong những trường hợp bắt buộc phải sử dụng kháng sinh để trị bệnh, người nuôi cần lưu ý những điểm quan trọng như: Chỉ dùng kháng sinh khi không còn cách nào khác và chỉ sử dụng cho bệnh do vi khuẩn gây ra. Chỉ dùng các loại kháng sinh được nhà nước cho phép.

Đặc biệt, người nuôi cần áp dụng nguyên tắc đúng loại, đúng bệnh, đúng cách, đúng liều, đúng lúc và đủ thời gian theo chỉ dẫn. Kháng sinh được sử dụng để trị bệnh, không phải để phòng bệnh; phải dùng liều đủ cao ngay từ đầu để tiêu diệt hoặc ức chế khuẩn gây bệnh. Tuyệt đối không dùng liều thấp rồi mới tăng dần lên, khiến cho vi khuẩn dễ kháng thuốc. Hiệu quả sử dụng sẽ cao hơn nếu kháng sinh được sử dụng đúng lúc khi mà mật độ vi khuẩn còn tương đối thấp. Không ngưng thuốc khi chưa đủ liều ngay cả khi bệnh đã có dấu hiệu thuyên giảm. Trong quá trình sử dụng nên kết hợp với các giải pháp khác như cải thiện điều kiện môi trường, bổ sung dinh dưỡng cho tôm… để hiệu quả được cao hơn. Dừng sử dụng 14 ngày trước khi thu hoạch tôm. Bên cạnh đó, khi mua kháng sinh, nên chú ý kiểm tra đầy đủ thành phần thuốc, bao bì còn nguyên vẹn, nhãn mác đủ thông tin về tên, thành phần hướng dẫn sử dụng, ngày sản xuất, hạn dùng, mã số lô, tên cơ sở sản xuất.

Trong hoạt động nuôi trồng thủy sản, nếu môi trường không được xử lý tốt sẽ lập tức bị ô nhiễm bởi lượng thức ăn dư thừa, xác chết của một số đối tượng nuôi, chất thải của các đối tượng nuôi tích tụ dưới đáy ao... làm nước có màu và mùi rất khó chịu, làm tổn hại đến sức khỏe của tôm, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của nghề nuôi.

Lớp bùn ở đáy ao khiến lượng ôxy hòa tan trong nước bị giảm mạnh, môi trường nước bị thiếu ô xy trầm trọng và từ đó còn sản sinh ra nhiều chất độc như amoniac, nitrite, hydrogen sulfide… khiến tôm di chuyển đến một số khu vực nước sạch. Việc tập trung tại cùng một chỗ làm tăng tính cạnh tranh khi ăn, sẽ có những con bị ăn thiếu. Trường hợp môi trường bị ô nhiễm nặng, tôm sẽ bỏ ăn, sức tăng trưởng giảm, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao, thậm chí bị chết hàng loạt.

Nước ô nhiễm không chỉ làm gia tăng nguồn bệnh cho thủy sản, gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ thủy sinh mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Vì vậy, việc xử lý nước trong quá trình nuôi trồng thủy sản được coi là việc làm bắt buộc, và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững ngành thủy sản.

Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc

Tin khác