Hoạt động của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương trong hệ thống biofloc với các chế độ ánh sáng khác nhau (19-09-2018)

Biofloc bao gồm các tập hợp của vi tảo, cộng đồng vi khuẩn, động vật nguyên sinh, động vật phù du, giun tròn, cũng như phân và thức ăn thừa. Khi được hình thành, chúng có thể đóng vai trò như một nguồn thức ăn bổ sung cho các sinh vật nuôi được hưởng lợi từ năng suất tự nhiên, được phản ánh trên sự tăng trưởng, tăng trọng lượng, chuyển đổi thức ăn và sự sống.
Hoạt động của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương trong hệ thống biofloc với các chế độ ánh sáng khác nhau
Ảnh minh họa

Hệ thống công nghệ biofloc là một trong những thiết kế để tăng năng suất trong khi cải thiện kiểm soát môi trường trong sản xuất, và giảm việc thay nước và ít nước thải, sử dụng các khu vực nuôi nhỏ hơn và làm giảm sự lây lan của bệnh. Do đó, nó làm tăng an toàn sinh học và cũng làm giảm chi phí liên quan đến thức ăn nuôi trồng thủy sản.

Công nghệ Biofloc và ánh sáng

Trong một hệ thống biofloc, một số thay đổi xảy ra trong chu kỳ nuôi, đặc biệt là khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời bởi vì nó có thể đột ngột thay đổi từ hệ thống chủ yếu là tảo sang hệ vi khuẩn (chủ yếu là dị dưỡng).

Nhìn chung, hệ thống biofloc có thể tiếp xúc với ánh sáng tự nhiên (các ao ngoài trời) hoặc có giới hạn tiếp xúc với ánh sáng tự nhiên (các bể trong nhà). Ngoài việc cần thiết cho quang hợp, ánh sáng được coi là yếu tố phi sinh học quan trọng đối với các sinh vật sống trong hệ thống, một số nghiên cứu đã cho thấy sự khác biệt đáng kể về hoạt động, sự tăng trưởng, lượng thức ăn và sinh sản của tôm biển penaeid khi tiếp xúc với các điều kiện ánh sáng khác nhau.

Hầu hết các hệ thống thông thường bị chi phối bởi tảo sống dựa trên các cộng đồng sinh vật phù du, (sinh vật quang tự dưỡng), có thể tổng hợp thức ăn của chúng bằng cách sử dụng năng lượng ánh sáng. Do đó, ánh sáng cũng là nguồn gốc nguyên thủy cho các sinh vật quang tự dưỡng và có thể được coi là một yếu tố hạn chế trong quá trình quang hợp và do đó trong quá trình sản xuất chính của nuôi tôm. Cường độ sáng khi thích hợp mang đến những lợi thế như giảm chi phí sản xuất, thức ăn, điện và tăng năng suất.

Hầu hết các nghiên cứu về hệ thống biofloc đã được thực hiện trong các nhà kính ở các vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới với nhiều ánh sáng tự nhiên. Nhưng việc biết chức năng của hệ thống biofloc trong điều kiện không có, hoặc với ánh sáng giảm cũng đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu của nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả hoạt động của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei) trong các bể chứa trong hệ thống biofloc với ánh sáng hạn chế.

Thiết lập nghiên cứu

Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành tại Trạm Nuôi trồng Thủy sản, thuộc Viện Hải dương học, Đại học Liên bang Rio Grande, RS, Brazil. Các thiết bị thí nghiệm bao gồm các bể dung tích 12.800 lít, phân bổ trong các điều kiện ánh sáng sau đây và với bốn lần lặp lại cho mỗi điều kiện ánh sáng: 24 giờ tối, khi mà các bể được bao phủ (T1); 24 giờ ánh sáng, nơi mà tại các bể ban đêm được chiếu sáng bởi ánh sáng nhân tạo (T2); và chu kỳ sáng tự nhiên (T3). Mật độ thả giống là 500 con/mét khối (trọng lượng trung bình 0,053 gram) và tỷ lệ cho ăn được sử dụng dựa trên Jory et al. (2001) và Garza de Yta et al. (2004). Tuy nhiên, 10% thức ăn hàng ngày được cho ăn bằng cách sử dụng các khay ăn tròn, để theo dõi và kiểm soát mức tiêu thụ thức ăn.

Việc đo ammonium (TAN) được thực hiện mỗi ngày, và việc bón phân gây màu bằng mật đường mía được tiến hành khi nồng độ amoniac đạt tới 1,0 mg/L. Việc bón phân gây màu hữu cơ với mật đường được nhằm mục tiêu theo tỷ lệ C: N là 6: 1, theo đề xuất của Avnimelech (1999) và Ebeling et al. (2006). Nhiệt độ nước, oxy hòa tan, pH và độ mặn, cũng như tổng chất rắn lơ lửng (TSS) và khối lượng biofloc (sử dụng nón Imhoff) được đo hàng ngày. Cường độ ánh sáng (LUX) được đo mỗi ngày vào lúc 12 giờ trưa.

Một thành phần probiotic thương mại (INVE®) đã được thêm vào nước với tỷ lệ 0,5 ppm/tuần và cho vào thức ăn ở mức 3 g/kg thức ăn. Nitrit, nitrat và chất diệp lục được phân tích ba ngày một lần. Tôm được lấy mẫu hàng tuần để xác định sự phát triển của chúng và vào cuối thí nghiệm để xác định sự sống của chúng. Tất cả các kết quả được phân tích bằng ANOVA một chiều (α = 0,05).

Các kết quả

Không có sự khác biệt đáng kể về nhiệt độ, oxy hòa tan, pH, độ đục, tổng chất rắn lơ lửng, độ kiềm và độ mặn; tất cả các thông số này nằm trong phạm vi bình thường đối với nuôi tôm thẻ L. vannamei. Tuy nhiên, có một sự khác biệt đáng kể về tổng nitơ amoni (NH3) và nitrit (NO2) và chất diệp lục. Mỗi khi nồng độ nitrit vượt quá 25 mg/L, 20% thể tích nước trong bể được thay, đặc biệt là trong các chế độ tiếp xúc với ánh sáng (T2 và T3).

Kết quả cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể về các tham số về nuôi tôm. Các chế độ với sự hiện diện của ánh sáng (T2 và T3) cho thấy các kết quả tốt hơn về tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR), tốc độ tăng trưởng hàng tuần (WGR), sinh khối cuối cùng và trọng lượng cuối cùng.

Đánh giá

Nghiên cứu này đã chứng minh rằng việc sản xuất tôm thẻ Litopenaeus vannamei tiếp xúc với ánh sáng cho kết quả tốt hơn đáng kể về các thông số kỹ thuật nuôi tôm có thể là do nguồn thức ăn có sẵn trong các chế độ này.

HNN (Theo GAA)

Ý kiến bạn đọc

Tin khác