Vi nhựa gây ra mối đe dọa đối với nuôi trồng thủy sản (19-11-2020)

Vi nhựa có thể nhỏ nhưng tác động của chúng đối với đời sống thủy sinh là rất lớn.
Vi nhựa gây ra mối đe dọa đối với nuôi trồng thủy sản

Các hạt nhựa, rơi ra từ vải dệt hoặc được tạo ra khi các mảnh rác thải nhựa lớn hơn phân hủy, là những mảnh vụn ở biển phổ biến nhất được tìm thấy trong đại dương. Ước tính có tới 51 nghìn tỷ hạt nhựa, nặng từ 93.000 đến 236.000 tấn, đang trôi nổi trên bề mặt đại dương.

Maria Sepulveda, Giáo sư trong phòng thí nghiệm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản tại Đại học Purdue cho biết: “Ô nhiễm nhựa đang tràn ngập và gần như không thể tránh khỏi ở một mức độ nào đó”.

Vi nhựa, về mặt kỹ thuật, có đường kính nhỏ hơn 5 mm, đã được tìm thấy trong vô số sinh vật thủy sinh, từ sinh vật phù du đến cá voi. Nghiên cứu cho thấy vi nhựa ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, tăng căng thẳng và góp phần làm tỷ lệ chết của sinh vật biển cao hơn. Một bài báo mới được xuất bản trên tạp chí Trends in Microbiology cho rằng vi nhựa cũng có thể là vật trung gian cho mầm bệnh, lây lan các gien kháng thuốc kháng sinh.

Nồng độ vi khuẩn kháng thuốc trên bề mặt vi nhựa cao hơn tới 5.000 lần so với trong nước biển xung quanh, điều này có thể cho phép các hạt nhựa có kích thước bằng hạt mè truyền vi sinh vật có hại và kích hoạt dịch bệnh.

Theo đồng tác giả nghiên cứu Ceri, vẹm, hàu, trai và các loại sinh vật khác là vật chủ tiềm năng cho vi nhựa. Theo đồng tác giả nghiên cứu Ceri Lewis, nhà sinh vật biển và Phó giáo sư tại Đại học Exeter, vi nhựa thường được phát hiện trong các loài hai mảnh vỏ ăn được, làm dấy lên lo ngại về sự lây truyền mầm bệnh và thiệt hại kinh tế tiềm ẩn trong nuôi trồng thủy sản.

Lewis giải thích: “Khi các mảnh nhựa trở nên nhỏ hơn, chúng sẽ đi qua ruột khá chậm và chúng chiếm không gian có thể chứa đầy thức ăn. Hầu hết vẹm và hàu và các loài khác ở dưới cùng của chuỗi thức ăn phải phát triển và sinh sản khá nhanh và bất cứ thứ gì làm giảm khả năng hấp thụ năng lượng từ thức ăn của chúng đều có thể làm chậm sự phát triển của chúng và gây ra nhiều hậu quả hơn cho sinh sản của các sinh vật này”.

Sepulveda của Đại học Purdue lo lắng rằng cá hồi và các loài ăn cá khác cũng có thể tiếp xúc với vi nhựa độc hại vì các hạt trôi nổi xung quanh trong môi trường biển có thể kết thúc trong ruột của chúng và ruột của cá chúng ăn dẫn đến tình trạng cá lờ đờ hoặc chết.

Cho đến nay, có rất ít nghiên cứu được thực hiện để đánh giá tác động của vi nhựa (hoặc khả năng truyền mầm bệnh của chúng) trong nuôi trồng thủy sản. Lewis thừa nhận rằng vẫn còn câu hỏi về việc liệu mầm bệnh trên vi nhựa sẽ truyền sang các loài sinh vật biển hay làm tăng số lần các nhà sản xuất phải đóng cửa để phục hồi sau các đợt bùng phát dịch bệnh hay không.

Lewis cho biết thêm, nghiên cứu về vi nhựa vẫn còn mới nhưng rủi ro thì không. Các mầm bệnh có thể lây truyền trên vi nhựa đã được tìm thấy tự nhiên trong hàu và vẹm và các nhà sản xuất giám sát chúng trong các hoạt động nuôi trồng thủy sản.

Bà nói: “Đây không phải là vấn đề tiêu dùng của con người. Đây là về việc hỗ trợ các nhà sản xuất và giảm thiểu bất kỳ rủi ro nào mà điều này có thể gây ra”.

Sepulveda tin rằng rủi ro từ vi nhựa trong nuôi trồng thủy sản thậm chí còn thấp hơn so với các loài đánh bắt tự nhiên do tuổi thọ của cá nuôi ngắn hơn. So với các loài tự nhiên có thể sống đến 15 năm, các loài nuôi thường được thu hoạch trong vòng 24 tháng hoặc ít hơn, giúp các vi nhựa độc hại có ít thời gian tích lũy sinh học hơn trong cơ thể chúng.

Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí Marine Pollution Bulletin, trong các nghiên cứu về cá vược châu Âu được cho ăn chế độ ăn có nhiều vi nhựa trong thời gian 16 tuần, cá không thấy có hạt vi nhựa trong miếng phi lê của cá.

Một nghiên cứu riêng biệt đã xem xét sự tích tụ vi nhựa trong các loài thương mại tại địa điểm nuôi trồng thủy sản sản xuất và phát hiện thấy sự tích tụ hạn chế, khiến các nhà nghiên cứu kết luận rằng “vi nhựa có thể không làm tăng nguy cơ sức khỏe khi tiêu thụ hải sản và tác động của chúng đối với các loài thương mại có thể ít tai hại hơn suy nghĩ trước đây”.

Mặc dù vẫn còn khoảng trống kiến ​​thức quan trọng về tác động của vi nhựa đối với nuôi trồng thủy sản, Lewis lưu ý rằng việc hiểu các rủi ro và nỗ lực để giảm thiểu các rủi ro là bước tiếp theo quan trọng đối với các nhà nghiên cứu và nhà sản xuất.

Việc lập bản đồ vị trí của các “điểm nóng” về nhựa nơi các vi nhựa có xu hướng tích tụ do các dòng hải lưu và vùng biển kín là một điểm khởi đầu tốt.

Trong nghiên cứu của mình, Lewis phát hiện ra rằng các khu vực như Vịnh Ba Tư, Trung Quốc và Florida có lượng vi nhựa dồi dào nhất và nhiều bằng chứng về sự hấp thụ của các loài như vẹm, hàu, sò điệp và trai. Nghiên cứu trong tương lai sẽ khám phá liệu việc thiết kế các cơ sở bên ngoài những điểm nóng này có thể hạn chế sự tiếp xúc với vi nhựa và sự truyền mầm bệnh hay không.

Các nghiên cứu dài hạn cũng cần thiết để bổ sung dữ liệu ngắn hạn hiện tại và hiểu rõ hơn cách các loài phản ứng với vi nhựa theo thời gian.

Khi các nhà nghiên cứu làm việc để hiểu cách vi nhựa ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, các nhà sản xuất cũng phải xem xét những đóng góp của họ đối với ô nhiễm nhựa và áp dụng các chiến lược để giảm sử dụng nhựa và tái sử dụng hoặc tái chế các thành phần nhựa.

Một báo cáo năm 2019, Marine Litter and Aquatology Gear, cho thấy mức độ gây ô nhiễm nhựa của nuôi trồng thủy sản thấp hơn nhiều so với đánh bắt thủy sản: “Nuôi trồng thủy sản trong bể khó có thể góp phần đáng kể vào ô nhiễm nhựa”.

Lewis nói: “Bây giờ chúng ta mới bắt đầu nhận ra rằng nhựa có ở khắp mọi nơi - đó không chỉ là vấn đề của đại dương. Chúng ta biết rằng vi nhựa trôi nổi trong đại dương sẽ mang mầm bệnh và đã đến lúc chúng ta phải loại bỏ nhựa ra khỏi nước”.

HNN (Theo GAA)

Ý kiến bạn đọc

Tin khác