Nghiên cứu về lượng phóng xạ trong các loài thủy sản di cư (05-09-2017)

Khi nhà máy điện Fukushima thải ra một lượng lớn vật liệu phóng xạ vào các vùng biển gần bờ sau trận động đất và sóng thần vào năm 2011, Nhật Bản đã đặt ra những lo ngại về việc liệu ăn hải sản bị ô nhiễm có làm hại sức khoẻ con người không chỉ ở địa phương mà cả Thái Bình Dương hay không.
Nghiên cứu về lượng phóng xạ trong các loài thủy sản di cư
Ảnh minh họa

Một nghiên cứu mới của một nhóm nghiên cứu quốc tế cho thấy những mối quan ngại này giờ đây có thể được giải quyết, ít nhất là đối với việc tiêu thụ thịt của các loài săn mồi ở biển di cư như cá ngừ, cá kiếm và cá mập.

Nhóm nghiên cứu tập trung vào cesium, một kim loại màu bạc với một lượng lớn đồng vị phóng xạ. Hai trong số này, 134Cs và 137Cs hình thành khi nhiên liệu urani bị phá vỡ trong lò phản ứng hạt nhân. Đồng vị của cesium là mối quan tâm đặc biệt vì chúng được thải ra với số lượng lớn sau thiên tai, có tuổi thọ tương đối dài (2,1 và 30 năm), và có xu hướng tích tụ trong các mô cơ mà con người thích ăn.

Tuy nhiên, việc lấy mẫu các mô từ các loài cá ăn thịt và các động vật có xương sống khác ở Bắc Thái Bình Dương trong năm 2012 và 2015 cho thấy không phát hiện 134Cs và nồng độ 137Cs nhìn chung phù hợp với các mức độ cơ sở từ các thử nghiệm hạt nhân trên mặt đất trong thập niên 1940 và 50. Họ thu thập các động vật từ các vùng biển gần Nhật Bản, Hawaii và California.

Tác giả chính Daniel Madigan của Đại học Harvard cho biết: “Các phép đo và tính toán liên quan của chúng ta về lượng caesium phóng xạ mà một người ăn phải thông qua ăn các loại hải sản này cho thấy những tác động đối với sức khoẻ con người có thể sẽ không đáng kể. Đối với các loại cá bị hạn chế buôn bán, mức cesium phải cao hơn 1.600 lần so với bất kỳ mẫu nào chúng ta đo được”.

Đồng tác giả Kevin Weng, trợ lý giáo sư tại Viện Khoa học biển Virginia William & Mary, đã tham gia nghiên cứu này bằng cách thu thập các mẫu cá ở các vùng biển quanh Oahu và một miệng núi dưới đáy biển. Ông cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phóng xạ từ thảm hoạ Fukushima rất thấp trong các động vật có xương sống ở đại dương”.

Đồng thời đóng góp cho nghiên cứu này là Zofia Baumann và Nicholas Fisher của Đại học Stony Brook; Owyn Snodgrass, Heidi Dewar, và Peter Dutton thuộc Trung tâm Khoa học Thủy sản Tây Nam NOAA; Michelle Berman-Kowalewski thuộc Tổ chức nghiên cứu Cetacean Channel Islands; và Jun Nishikawa của Đại học Tokai.

Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích của họ một phần là để tiếp nối các nghiên cứu trước đó của Madigan và các đồng nghiệp cho thấy nồng độ phóng xạ cesium ngày càng tăng trong cá ngừ vây xanh và cá ngừ vây dài bắt ngoài khơi bờ biển California trong thời gian ngắn sau khi thảm họa Fukushima - bằng chứng cho thấy những con cá này đã bơi gần 6.000 dặm trong vòng chưa đầy hai tháng. (Các dòng hải lưu phải mất hơn hai năm để cung cấp lượng cesium pha loãng rất nhiều từ Fukushima đến những vùng nước tương tự.)

Mặc dù nghiên cứu ban đầu tập trung vào việc sử dụng các đồng vị cesium như là một công cụ ngẫu nhiên có thể giúp các nhà khoa học mô tả các mô hình di cư của một nhóm cá thương mại bị khai thác triệt để, sự chú ý của công chúng lại tập trung vào những nguy cơ nhận thức đối với sức khoẻ con người.

Weng cho biết: “Các nghiên cứu trước đây cho thấy rủi ro rất thấp từ cesium cho bất cứ ai ăn những loài thủy sản di cư này, nhưng mối lo ngại của công chúng vẫn tồn tại. Mối quan tâm đó cũng được mở rộng bao gồm không chỉ các loài cá ngừ đã được đo lượng cesium, mà còn đối với các loài thủy sản khác, động vật có vú ở biển và cá mập.

Madigan cho biết: “Mọi người rất quan tâm đến cá hồi, cá bơn và sò điệp bắc Thái Bình Dương, và sư tử biển ở Nam California. Thậm chí có cả thông tin trên Internet rằng “Thái Bình Dương đã chết”.

Ông nói: “Một mục tiêu của nghiên cứu của chúng tôi là đưa ra những rủi ro được nhận thức bằng cách khảo sát một loạt các loài động vật có xương sống trên toàn bộ Bắc Thái Bình Dương về sự hiện diện hoặc không có cesium có nguồn gốc từ Fukushima. Các kết quả của chúng tôi chỉ mức độ thấp hoặc không thể phát hiện được ở những con vật này, rất quan trọng đối với nhận thức của công chúng về an toàn thủy sản và sự hiểu biết khoa học về chuyển đổi phóng xạ”.

HNN (Theo sciencedaily)

Ý kiến bạn đọc

Tin khác