Nỗ lực bảo tồn loài cá mú Nassau (04-04-2019)

Theo một báo cáo gần đây của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên IUCN, cá mú Nassau hiện được phân loại là cực kỳ nguy cấp.
Nỗ lực bảo tồn loài cá mú Nassau
Ảnh minh họa

Ngày nay, đã có những quy định cấm khai thác loài cá này nhằm nỗ lực bảo tồn loài. Nhưng IUCN ước tính rằng tổng số quần thể cá mú Nassau đã giảm hơn 60% kể từ năm 1980.

Theo các nhà nghiên cứu và các cán bộ bảo tồn, các con số này có thể sẽ tiếp tục giảm mạnh nếu không có thêm các quy định và thậm chí quan trọng hơn là thực thi hiệu quả. Giống như bất kỳ động vật nào khác, cá mú Nassau có thể được tìm thấy ở vùng biển của 40 quốc gia trên khắp vùng Ca-ri-bê.

Nhóm giám sát biển của Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã (WCS) ở Belize đã nhìn thấy những ngư dân đánh bắt bất hợp pháp trong mùa cá sinh sản năm nay tại khu vực Đông Bắc tại Khu bảo tồn sinh vật biển Glover, một khu vực cá sinh sản được theo dõi chặt chẽ.

Từ tháng 12 đến tháng 3, ngành đánh cá ở Belize đã ngừng đánh bắt để cho phép cá mú Nassau trưởng thành di cư an toàn từ các rạn san hô của chúng đến các bãi đá ngầm bên ngoài nơi cá tụ tập hàng năm để sinh sản. Đánh bắt bị cấm tại các địa điểm cá tập hợp sinh sản của Belize. Tuy nhiên, ở Belize, như ở hầu hết các quốc gia có quần thể cá mú Nassau, việc đánh bắt cá vẫn hợp pháp đối với các con cá có kích thước nhất định từ tháng 4 đến tháng 11.

Mặc dù có sự bảo vệ nghiêm ngặt xung quanh các khu vực sinh sản đã biết, việc những con cá này di chuyển đến nơi sinh sản của chúng khiến chúng trở thành mục tiêu dễ dàng cho các tàu đánh cá bất hợp pháp. Trong số 50 quần đàn sinh sản được biết đến, hơn 30 quần đàn đã biến mất hoàn toàn, làm cho quần đàn tại Khu bảo tồn biển Glover trở nên đặc biệt quan trọng.

Các tàu đánh cá bất hợp pháp bị bắt giữ ở Belize đã được đăng ký tại Honduras, Guatemala và Mexico. Tewfik nhấn mạnh sự cần thiết phải hợp tác quốc tế trong phạm vi môi trường sống của cá mú Nassau.

Các cơ quan quản lý ở Belize bị hạn chế do thiếu thiết bị phù hợp, điều này cản trở khả năng thực thi sự tuân thủ của cả ngư dân địa phương và ngư dân từ các khu vực khác. Các hoạt động quản lý được thực hiện bởi Cơ quan nghề cá, bảo vệ bờ biển và kiểm ngư ở một số địa điểm.

WCS Belize và các tổ chức đối tác của họ đang nỗ lực bảo tồn cá mú Nassau trong vùng biển Belize, nơi có một số ít quần đàn sinh sản của thế giới.

Cách đây hơn 40 năm, đoàn thám hiểm Jacques Cousteau đã ghi nhận có 15.000 cá mú Nassau tại đảo san hô Caye Glory. Cuộc khảo sát năm nay về quần đàn sinh sản vùng Đông Bắc, nơi từng tự hào với số lượng tương tự, ghi nhận có ít hơn 400 con cá.

Để đối phó với sự khan hiếm ngày càng tăng của loài này, Chương trình Môi trường Ca-ri-bê của Cơ quan Môi trường Liên Hợp quốc đã bổ sung cá mú Nassau vào Phụ lục III của Nghị định thư Động vật hoang dã và các khu vực bảo vệ đặc biệt (SPAW) vào đầu năm 2017. Điều này đòi hỏi các biện pháp đặc biệt để đảm bảo sự bảo vệ và phục hồi cá mú Nassau và các quy định nghiêm ngặt hơn quản lý việc đánh bắt loài này. Nhưng như với nghề cá Belize, việc thực thi không đầy đủ Nghị định thư SPAW trong khu vực có thể là một yếu tố hạn chế trong việc phục hồi các nghề cá bị ảnh hưởng.

Mặc dù ước tính dân số cá mú Nassau giảm mạnh và nguồn lực không đủ, các nhà bảo tồn đang nỗ lực giám sát và bảo tồn cá mú Nassau.

Ngoài các cuộc lặn khảo sát để đếm cá, nhóm WCS sử dụng một kỹ thuật dựa trên laze để đo chiều dài của từng con cá mà không gây căng thẳng hoặc thương tích. Một cặp laze được gắn bên dưới máy ảnh dưới nước, dựa vào đó các nhà nghiên cứu có thể so sánh với các bức ảnh của con cá. Tỷ lệ chiều dài khác nhau của các cá thể cá mú Nassau trong một quần thể nhất định cho các nhà khoa học biết về sức khỏe và sự phục hồi của một quần đàn sinh sản.

Tewfik cho biết dữ liệu về kích thước cũng quan trọng như dữ liệu về mức độ phong phú của cá. Nhóm WCS tìm kiếm sự có mặt của những con cá sinh sản lớn, cá mú dài hơn 30 inch, hoặc 76 cm. Các nhà nghiên cứu cũng hy vọng sẽ thấy nhiều cá nhỏ hơn, điều này cho thấy quần đàn đang phục hồi thông qua sinh sản thành công.

WCS cũng đang nỗ lực bảo vệ môi trường sống của cá mú Nassau thông qua Chương trình các khu bổ sung được hỗ trợ bởi chính phủ Belize, Quỹ Bảo tồn thiên nhiên và các đối tác phi chính phủ khác. Cho đến nay, hơn 7% vùng biển Belize đã được dành riêng cho chương trình này. Chương trình tích hợp bảo vệ môi trường sống với các sáng kiến ​​truyền thông để tuyên truyền cho ngư dân những lợi ích của việc bảo vệ một số khu vực biển.

Ở Belize, các cơ quan quản lý sử dụng thuật ngữ khu vực bổ sung, thay vì khu vực bảo vệ biển được sử dụng rộng rãi hơn, hay còn gọi là MPA, để nhấn mạnh quan niệm rằng các địa điểm này có lợi cho ngư dân bằng cách cung cấp một không gian nơi các quần đàn thủy sản mang lại nguồn lợi cho họ có thể phát triển. Khu bảo tồn biển rạn san hô Glover, nơi chứa địa điểm quần đàn sinh sản vùng Đông Bắc, cung cấp nơi trú ẩn cố định cho các loài cá trong suốt cả năm.

Nhóm WCS đã phát hiện ra rằng các khu vực được bảo vệ không chỉ mang lại lợi ích cho cá mú Nassau mà còn giúp bảo vệ các sinh vật biển ít di động hơn như ốc xà cừ nữ hoàng có giá trị thương mại và tôm hùm gai.

Cá mú Nassau khi bị bắt một cách hợp pháp vẫn có thể được tiêu thụ trên khắp vùng Ca-ri-bê. Người tiêu dùng đang tìm cách tránh ăn một loài cực kỳ nguy cấp có thể gặp khó khăn trong việc xác định nên mua loại cá nào tại nhà hàng. Nói chung, rất có thể loài này sẽ chỉ được gọi chung là cá mú.

Ngư dân địa phương và khu vực sẽ cần phải tuân thủ các biện pháp bảo vệ, hoặc có nguy cơ nhìn thấy quần đàn cá mú Nassau biến mất hoàn toàn.

Các quần đàn sinh sản có thể không bao giờ phục hồi số lượng lớn hàng chục ngàn con cá như trước kia, nhưng công việc của các nhà khoa học, nhà bảo tồn và ngư dân tuân thủ luật pháp, cùng với sự hợp tác của các chính phủ xung quanh môi trường sống của cá mú Nassau, vẫn có thể cứu loài này khỏi nguy cơ tuyệt chủng.

HNN (Theo mongabay)

Ý kiến bạn đọc

Tin khác