Nghiên cứu bệnh ở nhuyễn thể có thể giúp cứu loài ốc biển nguy cấp (05-03-2018)

Bào ngư, nhuyễn thể đơn bào lớn, đang có hiện tượng bất thường trong những ngày này ngoài khơi bờ biển Washington, California và Oregon. Trong số bảy loài bào ngư ở bờ biển phía Tây, hai loài đang bị đe doạ và ba loài được coi là đáng lo ngại. Và một trong hai loài không bị đe doạ, loài bào ngư đỏ, đã ghi nhận ​​sự sụt giảm số lượng vào năm ngoái khiến các nhà quản lý thủy sản phải đóng cửa ngành đánh bắt giải trí vào năm 2018 tại California.
Nghiên cứu bệnh ở nhuyễn thể có thể giúp cứu loài ốc biển nguy cấp
Ảnh minh họa

Mặc dù sự suy giảm của bào ngư phần lớn là do đánh bắt quá mức, các nỗ lực phục hồi đã trở nên phức tạp do sự thay đổi môi trường và hiện nay, một loại bệnh gây chết bào ngư gọi là hội chứng hoại tử. Trong một nghiên cứu mới được tài trợ bởi California Sea Grant, các nhà nghiên cứu đã đưa ra ánh sáng mới về hội chứng hoại tử ở ba loài bào ngư: bào ngư đỏ, bào ngư hồng, và bào ngư vằn.

Nghiên cứu chỉ ra rằng những loài thích nghi với nước lạnh hơn có thể dễ bị bệnh hơn và nhiệt độ nước tăng dẫn đến sự nhạy cảm hơn. Điều đó có nghĩa là khi nhiệt độ nước tăng lên, căn bệnh này có thể lây lan sang bắc California, Oregon và Washington, ảnh hưởng đến các trang trại nuôi bào ngư sản xuất tạo nguồn cung cho thực phẩm cũng như các nỗ lực để bảo vệ và khôi phục các loài bào ngư bản địa dọc theo bờ biển.

Nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Washington, Carolyn Friedman, cho biết: “Hội chứng hoại tử lần đầu tiên được chú ý vào năm 1985 tại Quần đảo Channel thuộc Nam California. Kể từ đó, nó đã lan rộng ra cả phía bắc và phía nam dọc theo bờ biển, phía nam vào Mexico và phía bắc tới quận Sonoma”. Hội chứng này đã dẫn đến các thảm hoạ chết nghiêm trọng ở các quần thể bào ngư đen trong tự nhiên hiện đang bị đe dọa và bào ngư trắng nuôi và đã được quan sát thấy ở các loài khác như bào ngư hồng và đỏ.

Friedman cho biết: “Các dấu hiệu lâm sàng ban đầu mà chúng ta có thể quan sát được là tổng quát và bao gồm việc giảm trọng lượng và chán ăn Một người nuôi có thể nhận thấy rằng bào ngư không ăn nhiều và trở nên biếng ăn. Thông thường cơ thể và bàn chân của bào ngư sẽ lấp đầy toàn bộ vỏ bọc. Khi chúng bị nhiễm bệnh, bạn có thể nhìn thấy lớp vỏ bọc bị thụt vào. Một khi những dấu hiệu bệnh này xuất hiện, bệnh không thể chữa khỏi. Bào ngư bị nhiễm bệnh chết trong vòng một đến ba tháng”.

Nguyên nhân của căn bệnh đã được xác định - một loại vi khuẩn có liên quan đến căn bệnh sốt Rickettsia ở người - nhưng không rõ tại sao một số loài lại dễ bị tổn thương hơn các loài khác. Cũng không rõ là liệu những loài hiện đang ở ngoài phạm vi dịch bệnh cũng có thể bị nhiễm bệnh hay không.

Trong nghiên cứu mới, Friedman và một sinh viên cao học, Đại học Washington ứng cử viên Tiến sĩ Lisa Crosson, đã cho 3 loài bào ngư từ California tới Washington nhiễm loại vi khuẩn gây hội chứng hoại tử, và tiếp xúc với một loạt các mức nhiệt độ nước.

Họ phát hiện ra rằng bào ngư vằn, có nguồn gốc từ vùng biển lạnh của bang Washington và Canada, là loài dễ bị hội chứng hoại tử, bị nhiễm bệnh và chết ở nhiệt độ 17oC (63oF). Bào ngư đỏ, có nguồn gốc ở miền bắc và trung tâm California, đã bị bệnh ở 18°C (64°F), trong khi bào ngư hồng, có nguồn gốc ở miền nam California, ít dễ bị tổn thương nhất, và cần một nhiệt độ nước là 19°C (66°F) trước khi bị nhiễm bệnh.

Crosson cho biết: “Đây là nghiên cứu nhiễm bệnh đầu tiên với bào ngư vằn, nơi mà chúng ta chứng minh rằng chúng rất dễ bị nhiễm bệnh và có khả năng đề kháng với hội chứng họai tử rất thấp. Bào ngư vằn là loài duy nhất trong thí nghiệm có tỷ lệ chết 100%, bào ngư đỏ và hồng có tỷ lệ chết  thấp hơn 30%”.

Friedman và Crosson cũng nhận thấy rằng di truyền học có thể đóng một vai trò - khi họ so sánh các marker di truyền từ ba loài với loài bào ngư trắng (cực kỳ dễ bị bệnh), họ tìm ra mối liên hệ giữa tính dễ bị tổn thương và liên quan đến di truyền đến bào ngư trắng.

Nghiên cứu cũng là một cảnh báo về biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến những loài dễ bị tổn thương và có thể hữu ích cho các nỗ lực khôi phục, cùng với những dự báo về sự thay đổi nhiệt độ của đại dương.

Friedman cho biết: “Động vật biển bị nhiễm bệnh truyền nhiễm và nhiệt độ là một yếu tố rất quan trọng. Vì vậy, nếu chúng ta có thể làm giảm sự nóng lên của đại dương, chúng ta có thể làm giảm các tác động mà con người thậm chí không thể nhận ra”.

HNN (Theo sciencedaily)

Ý kiến bạn đọc