Khai thác thủy sản nội địa toàn cầu đạt sản lượng kỷ lục hơn 12 triệu tấn (16-09-2020)

Sản lượng khai thác nội địa tiếp tục tăng
Khai thác thủy sản nội địa toàn cầu đạt sản lượng kỷ lục hơn 12 triệu tấn

Khai thác thủy sản nội địa có điều kiện để phát triển ở khắp nơi trên thế giới. Tại một số khu vực, nghề cá nội địa là nguồn cung cấp thực phẩm thủy sản chính cho nhu cầu tiêu thụ của các quốc gia hoặc khu vực đó. Điển hình như vùng hồ Lớn châu Phi, lưu vực hạ lưu sông Mê Kông, khu vực rừng Amazon của Pêru và Braxin cũng như lưu vực sông Brahmaputra (khu vực Tây Tạng) và Ayeyarwady (Mianma). Trong khi đó, tại những khu vực khác, mặc dù sản lượng khai thác thủy sản nội địa không lớn nhưng lại rất quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm thủy sản hàng ngày cho người dân ở đó, ví dụ như vùng nước nội địa của Sri Lanka hay Sumatra và Kalimantan ở Inđônêxia.

Theo số liệu do FAO tổng hợp năm 2020, sản lượng khai thác nội địa toàn cầu tăng ổn định qua các năm và đạt mức hơn 12 triệu tấn năm 2018, mức cao nhất từ trước đến nay. Khai thác nội địa đã đóng góp ngày càng nhiều hơn vào tổng sản lượng khai thác thủy sản toàn cầu từ mức 8% vào cuối những năm 1990 lên 12,5% năm 2018 do có sự giảm sút sản lượng khai thác hải sản vào cuối thế kỷ trước.

Trung Quốc là nước đứng đầu về sản lượng khai thác nội địa, duy trì ổn định tương đối sản lượng vào khoảng 2,1 triệu tấn mỗi năm trong hơn 20 năm qua. Tổng sản lượng khai thác nội địa trên thế giới tăng chủ yếu do sản lượng tăng của một số nước trong tốp đầu về khai thác nội địa ngoài Trung Quốc như Ấn Độ, Băng la đét, Mianma và Campuchia. Cùng với Trung Quốc, đây là nhóm 5 nước tốp đầu về sản lượng thủy sản khai thác nội địa, chiếm tới 51% tổng sản lượng toàn cầu.

Theo nhận định của FAO, khai thác nội địa tuy phát triển rộng khắp, nhưng lại tập trung hơn so với khai thác hải sản. Tốp 16 nước có sản lượng cao nhất đã chiếm hơn 80% tổng sản lượng thủy sản khai thác nội địa toàn thế giới. Châu Á, nơi thủy sản khai thác nội địa chiếm phần quan trọng trong cuộc sống của cộng đồng dân cư, đóng góp ổn định tới 2/3 tổng sản lượng toàn cầu từ giữa những năm 2000. Tốp 6 nước đứng đầu về sản lượng thủy sản khai thác nội địa đều thuộc về châu Á. Châu Phi là khu vực mà nghề cá nội địa là ngành cung cấp nguồn thực phẩm quan trọng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, nhất là đối với những nước không có biển và thu nhập thấp. Do vậy, Đây là khu vực lớn thứ hai sau châu Á về sản lượng thủy sản khai thác nội địa, đóng góp tới 25% tổng sản lượng toàn cầu. Khu vực châu Mỹ và châu Âu chỉ đóng góp 9% vào sản lượng thủy sản khai thác nội địa toàn cầu.  

Hiện nay, một số khu vực có sản lượng khai thác nội địa lớn nhất thế giới đều đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa nghiêm trọng do yếu tố môi trường cũng như sự tác động của con người. Tuy nhiên, việc quản lý hoạt động khai thác thủy sản nội địa tại hầu hết các khu vực vẫn còn nhiều hạn chế.

Bảng 1. Các khu vực có thị phần lớn nhất trong sản lượng khai thác nội địa toàn cầu

TT

Lưu vực nước

Tỷ trọng trong tổng sản lượng toàn cầu (%)

TT

Lưu vực nước

Tỷ trọng trong tổng sản lượng toàn cầu (%)

1

Sông Mê Kông (bao gồm Biển Hồ ở Cămpuchia)

15,18

7

Sông Hằng (Ấn Độ)

3,51

2

Sông Nin (châu Phi)

7,70

8

Sông Châu Giang (Trung Quốc)

3,27

3

Vùng Ayeyarwady (Mianma)

7,82

9

Ven bờ biển Trung Quốc

2,75

4

Sông Trường Giang

6,83

10

Sông Hồng

2,46

5

Sông Brahmaputra (Tây Tạng)

5,52

11

Sông Chao Phraya (Thái Lan)

2,37

6

Sông Amazon (Nam Mỹ)

4,26

12

Sông Niger (CH Nigiê)

2,13

            Nguồn: FAO

Nghề cá nội địa chịu tác động lớn của môi trường, điều kiện khí hậu và của chính hoạt động khai thác. Áp lực đối với nghề cá nội địa còn phải chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như mật độ dân số, năng suất tự nhiên của các vùng nước cũng như các hoạt động sản xuất phụ liên quan. Sự phụ thuộc kinh tế xã hội vào nghề cá nội địa, thiếu nguồn thực phẩm và sinh kế thay thế đối với cộng đồng dân cư cũng là yếu tố dẫn đến gia tăng áp lực lên nghề cá nội địa. Ngoài ra, các hoạt động trong nông nghiệp (bao gồm cả thủy lợi), đô thị hóa, công nghiệp hóa đang tác động mạnh đến nguồn nước và hệ sinh thái. Do chịu ảnh hưởng từ sự tương tác của tất cả những yếu tố trên, khai thác nội địa.

Xu hướng của khai thác nội địa

Theo đánh giá của FAO, xu thế tăng liên tục sản lượng khai thác nội địa trong hơn thập kỷ qua có thể chưa chính xác vì mức tăng này chủ yếu do báo cáo đánh giá của nhiều quốc gia đang được điều chỉnh nhằm cải thiện các số liệu báo cáo, chứ không hoàn toàn do sản lượng khai thác tăng.  

Các chuyên gia FAO đã nghiên cứu số liệu báo cáo của từng quốc gia trong 10 năm (2007 – 2016) theo phương pháp kiểm định Mann-Kendall với độ tin cậy lên đến 90% để xác định thực tế hơn xu hướng khai thác thủy sản nội địa toàn cầu. Trong số 153 quốc gia có hoạt động khai thác thủy sản nội địa, có 43 quốc gia không có đầy đủ báo cáo số liệu thường niên trong 10 năm qua, nên kết quả phân tích không tính đến các quốc gia này. 43 quốc gia này chiếm 15,1% tổng sản lượng khai thác nội địa toàn cầu năm 2016 (tương đương 1.756.309 tấn).

Kết quả nghiên cứu số liệu của 110 nước còn lại cho thấy, có 37 quốc gia có xu hướng tăng sản lượng khai thác thủy sản nội địa trong thập kỷ qua. Nhóm quốc gia này, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ, Campuchia, Inđônêxia, Nigiêria, Liên bang Nga và Mêxicô có mức tăng trưởng tốt, chiếm đến 58,7% sản lượng khai thác nội địa của toàn thế giới và là nhóm có ảnh hưởng lớn đến xu hướng phát triển của nghề cá nội địa thế giới (Bảng 2).

Bảng 2. Thị phần sản lượng khai thác nội địa của các nhóm xu hướng trên toàn thế giới

Xu hướng sản lượng

(2007 – 2016)

Số nước trong nhóm

Sản lượng (tấn)

Tỷ trọng trong sản lượng toàn cầu (%)

Nước có ảnh hưởng lớn tới nhóm (>1% tổng sản lượng của nhóm)

Sản lượng tăng

37

6.839.955

58,7

Trung Quốc (34%), Ấn Độ (21%), Campuchia (7%), Inđônêxia (6%), Nigiêria, LB Nga, Mêxicô, Philippin, Kenya, Malawi, Pakistan. Sat, Môdămbic, I-ran, Sri Lanka, Ethiopia, Công-gô

Sản lượng giảm

28

691.672

5,9

Braxin (33%), Thái Lan (27%), Việt Nam (16%), Thổ Nhĩ Kỳ, Madagascar, Nhật Bản, Mỹ, Pê-ru, Ba Lan, Séc

Sản lượng ổn định

27

893.401

7,7

Tanzania (35%), CHDC Công-gô (26%), Mali (11%), Kazakhstan, Nigiê, Phần Lan, Bê Nanh, Venezuela, I-rắc, Nê pan, Achentina, Tô gô, Rumani

Xu hướng không rõ ràng

17

1.464.573

12,6

Bănglađét (72%), Ai Cập (16%), Dămbia, Canađa, Bu-run-di, Đức, Hàn Quốc

Không tính đến trong phân tích xu hướng của FAO

43

1.756.309

15,1

Mianma (50%), Uganda (22%), Gha-na (5%), Lào, Nam Sudan, Sênêgan, Sudan, CH Trung Phi, Ghi-nê, Ca-mơ-run, Cô-lôm-bia, Paragoay, Dim-ba-buê, Mauritania, Tuốc-mê-nixtan, Papua Niu Ghi-nê, Ga-bông

            Nguồn: FAO

Theo hướng ngược lại, có 28 quốc gia lại đang có sự sụt giảm về sản lượng khai thác nội địa. Nhóm này chỉ chiếm 5,9% tổng sản lượng toàn cầu. Trong đó, rõ nét nhất là Braxin, Thái Lan, Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ, là những nước có nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh. Mặc dù vậy, khai thác thủy sản nội địa vẫn đang giữ vai trò rất quan trọng tại các địa phương ở các quốc gia thuộc nhóm này. Do vậy, sự sụt giảm sản lượng khai thác nội địa có tác động nhất định đến sinh kế của cư dân tại các quốc gia này.

Nhóm 27 quốc gia khác lại đang giữ được sự ổn định trong hoạt động khai thác nội địa, chiếm 7,7% sản lượng khai thác thủy sản nội địa toàn cầu. Tanzania, Cộng hòa Dân chủ Côngô, Mali và Kazakhstan là những nước đóng góp lớn trong nhóm này. Nhóm các nước còn lại gồm 17 quốc gia không thể hiện rõ xu thế tăng, giảm sản lượng khai thác nội địa, chiếm 12,6% sản lượng khai thác nội địa toàn cầu.  Bănglađét, Ai cập và Zambia là ba nước chiếm sản lượng lớn nhất trong nhóm này.

Kết quả nghiên cứu của FAO cho thấy, mức tăng trưởng trong khai thác thủy sản nội địa toàn cầu chịu ảnh hưởng lớn vào xu thế phát triển nghề cá nội địa của 34 quốc gia, trong đó, có khoảng 8 quốc gia có tác động rõ nhất vào xu hướng tăng trưởng của nghề cá nội địa. Mặc dù có đến 24 quốc gia sụt giảm sản lượng khai thác nội địa, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến xu thế sản lượng chung của toàn cầu. Xét trên bình diện chung, khai thác thủy sản nội địa vẫn đang giữ vai trò quan trọng cung cấp thực phẩm thủy sản cho cư dân bản địa của các nước trên thế giới.

Nam Anh (theo fao.org)

Ý kiến bạn đọc