Triển khai Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2030 (26-12-2022)

Vừa qua, tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Bộ NN&PTNT phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức “Hội nghị triển khai Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2030”.
Triển khai Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2030

Mục tiêu hiệu quả, bền vững

Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021 - 2030 (gọi tắt là Chương trình). Mục tiêu chung của Chương trình là phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) hiệu quả, bền vững, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; Nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm NTTS; Đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Đến năm 2030 sản lượng NTTS đạt 7triệu tấn/năm, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Mục tiêu cụ thể, giai đoạn 2021 - 2025: Đến năm 2025, tổng sản lượng NTTS đạt 5,6 triệu tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD/năm, tốc độ tăng trưởng giá trị NTTS đạt trung bình 4%/năm.Chủ động sản xuất, cung ứng được trên 50% nhu cầu tôm sú bố mẹ và trên 25% nhu cầu tôm thẻ chân trắng bố mẹ, trên 70% nhu cầu cá tra bố mẹ chọn giống; Chủ động sản xuất, cung ứng đủ con giống các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao và khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn. Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng đầu mối thiết yếu đáp ứng yêu cầu sản xuất cho trên 30 vùng NTTS tập trung và vùng sản xuất giống tập trung.Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ, đảm bảo đầu ra ổn định cho trên 30% sản lượng sản phẩm NTTS.

Giai đoạn 2026 - 2030: Đến năm 2030, tổng sản lượng NTTS đạt 7 triệu tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 12 tỷ USD/năm, tốc độ tăng trưởng giá trị NTTS đạt trung bình trên 4,5%/năm.Chủ động sản xuất, cung ứng được trên 60% nhu cầu tôm sú, tôm thẻ chân trắng bố mẹ và 100% cá tra bố mẹ chọn giống; Cải thiện chất lượng con giống các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao và khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn.Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng đầu mối thiết yếu đáp ứng yêu cầu sản xuất cho trên 50 vùng NTTS tập trung và vùng sản xuất giống tập trung.Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ, đảm bảo đầu ra ổn định cho trên 50% sản lượng sản phẩm NTTS.

Chương trình có 6 nội dung chính gồm: Phát triển sản xuất giống thủy sản; Phát triển NTTS; Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng NTTS; Phát triển hệ thống sản xuất, cung ứng vật tư và công nghiệp hỗ trợ NTTS; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tổ chức sản xuất; Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong NTTS.

Giải pháp nào để đạt hiệu quả cao?

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng: Việt Nam có diện tích mặt nước sông, suối, bãi triều, đầm phá, cửa sông rộng lớn… tạo nên tiềm năng to lớn để phát triển NTTS. Về hoạt động sản xuất NTTS, nước ta không ngừng phát triển, tạo vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Phát triển NTTS đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định phát triển kinh tế xã hội nhiều vùng nông thôn, vùng núi, ven biển... Giai đoạn này, dư địa còn lớn, chúng ta phải tính giải pháp xuyên suốt 2 giai đoạn 2021 - 2025 và 2026 - 2030. Vấn đề trong NTTS hiện nay là hạ tầng và môi trường, môi trường kém thì hiệu quả nuôi thấp, không có sức cạnh tranh... Hội nghị lần này nhằm lấy ý kiến đóng góp của các đại biểu để hoàn thiện Kế hoạch hành động, bàn giải pháp triển khai hiệu quả Chương trình này.

Tại Hội nghị, ông Cao Văn Cường, Giám đốc Sở NN&PTNT Thanh Hóa cho biết: Thực hiện Chương trình Quốc gia phát triển NTTS giai đoạn 2021 - 2030, Sở Sở NN&PTNT Thanh Hóa đã tham mưu cho UBND tỉnh Thanh Hóa ban hành Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày 22/9/2022 về thực hiện Chương trình Quốc gia phát triển NTTS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2022 - 2030 với mục tiêu: Đến năm 2025:Diện tích NTTS 19.300 ha; Thể tích lồng nuôi 215.000 m3; Sản lượng đạt 64.000 tấn, trong đó sản phẩm chủ lựctôm 12.000 tấn, ngao 13.000 tấn, nuôi biển 3.000 tấn. Đến năm 2030: Diện tích NTTS ổn định 19.300 ha; Thể tích lồng nuôi 280.000 m3; Sản lượng đạt 70.000 tấn, trong đó sản phẩm chủ lực tôm 16.000 tấn, ngao 13.000 tấn, nuôi biển 2.000 tấn.

Cũng theo ông Cường, mặc dù trong năm 2022, nhiều lĩnh vực gặp không ít khó khăn, trong đó có NTTS do ảnh hưởng của giá nhiên liệu, thức ăn tăng cao, nhưng lĩnh vực này vẫn đạt và vượt kế hoạch. Cụ thể, tổng diện tích NTTS toàn tỉnh đạt 19.200ha, đạt 100% kế hoạch. Tổng sản lượng ước đạt 70.849 tấn, bằng 107,7% so với cùng kỳ và tăng 4,2% so với kế hoạch. Bước sang năm 2023, tỉnh đặt mục tiêu, diện tích NTTS đạt 19.200ha, tổng sản lượng đạt 73.500 tấn.Tuy nhiên hiện nay ngành NTTS của tỉnh vẫn còn một số tồn tại, hạn chế đó là:Nguồn giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng chủ yếu được di ương từ các tỉnh miền Trung nên công tác quản lý gặp nhiều khó khăn trong kiểm tra xác định nguồn gốc, chất lượng con giống. Thị trường cho tiêu thụ sản phẩm thủy sản nước ngọt còn gặp nhiều khó khăn. Hạ tầng vùng nuôi đang còn nhỏ lẻ, phân tán, chưa tạo thành vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn. Tổ chức sản xuất: NTTS quy mô nhỏ, hộ gia đình chiếm thành phần chính, doanh nghiệp, hợp tác xã NTTS chưa nhiều. Hợp tác xã, tổ hợp tác NTTS hoạt động có hiệu quả còn ít, còn lúng túng, khó khăn từ khâu tổ chức đến vận hành.

Tại Hội nghị, đại diện sở NN&PTNT của một số địa phương đã đóng góp ý kiến vào Dự thảo Kế hoạch hành động của Bộ NN&PTNT thực hiện Chương trình liên quan đến phát triển sản xuất giống; Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng; Phát triển hệ thống sản xuất, cung ứng vật tư và công nghiệp hỗ trợ; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong NTTS; Ứng dụng công nghệ trong NTTS…

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu các đơn vị trực thuộc Bộ và các tỉnh, thành phố căn cứ điều kiện thực tế, kế hoạch thực hiện Chương trình của địa phương và nội dung Chương trình này, chỉ đạo tổ chức thực hiện hiệu quả. Đồng thời, ưu tiên bố trí kinh phí hàng năm từ ngân sách địa phương, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện các nội dung của Chương trình và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng NTTS tập trung tại địa phương.

Bộ NN&PTNT luôn đồng hành cùng với địa phương trong quá trình thực hiện các nguồn vốn của Trung ương về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng NTTS, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong thời gian tới, các đơn vị trực thuộc Bộ và các tỉnh, thành phố triển khai nghiêm túc Kế hoạch hành động của Bộ NN&PTNT thực hiện Chương trình khi được ban hành, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói thêm.

Hải Đăng

Ý kiến bạn đọc

Tin khác