Nghiên cứu tính bền vững của thức ăn nuôi trồng thủy sản dựa trên thực vật (12-04-2019)

Một nghiên cứu mới của các nhà nghiên cứu tại Viện Nuôi trồng thủy sản Đại học Stirling kết luận rằng có một nhu cầu cấp thiết cho sự thay đổi mô hình trong định nghĩa về thức ăn nuôi tôm bền vững.
Nghiên cứu tính bền vững của thức ăn nuôi trồng thủy sản dựa trên thực vật
Ảnh minh họa

Ngành nuôi tôm toàn cầu có sản lượng ước tính khoảng 4 triệu tấn và đã trở thành một trong những ngành tiêu thụ bột cá lớn nhất trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Điều này đã gây áp lực lên các nhà sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản để tìm ra các thành phần thay thế phù hợp mà không ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc tốc độ tăng trưởng của tôm.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu được công bố gần đây, thay thế bột cá bằng các chất thay thế dựa trên thực vật có thể không phải là phương án tối ưu mà các nhà vận động sinh thái đang tính đến.

Nghiên cứu mang tựa đề “Câu hỏi hóc búa về tính bền vững của việc thay thế bột cá bằng các thành phần thực vật trong thức ăn cho tôm”, được thực hiện bởi Wesley Malcorps, đã mô hình tác động của việc giảm bột cá trong chế độ ăn thương mại.

Khi nhu cầu về thức ăn tôm tăng lên, các nhà sản xuất thức ăn đang chuyển sang các thành phần dựa trên cây trồng, trong một động thái chủ yếu được thúc đẩy bởi các khuyến khích về mặt kinh tế. Điều này được chứng minh bằng cách xem xét giá tương đối của bột cá so với các thành phần thực vật phổ biến như protein đậu nành cô đặc, ngũ cốc và gluten lúa mì. Ông Malcorps nói với SeafoodSource: Một số người coi động thái này là một sự chuyển đổi bền vững, vì nó làm giảm sự phụ thuộc vào một nguồn tài nguyên biển hữu hạn. Tuy nhiên, một sự thay đổi trong thành phần sẽ làm thay đổi nhu cầu tài nguyên từ các đại dương sang đất liền và có thể ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của tôm.

Nhóm của ông đã đưa ra mô hình thay thế bột cá tăng dần bằng các thành phần thực vật trong thức ăn cho tôm sú (Penaeus monodon) và tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Các mô hình đã được sử dụng để đánh giá tác động của nó đối với các nguồn tài nguyên trên biển và trên cạn như cá, đất, nước ngọt, nitơ và phốt pho.

Nghiên cứu đã chứng minh rằng việc thay thế hoàn toàn bột cá bằng các thành phần thực vật có thể dẫn đến nhu cầu về nước ngọt tăng lên tới 63%, đất lên tới 81% và phốt pho lên tới 83%. Ông Malcorps cho biết: Đây là những mức tăng đáng kể, vì chỉ có 20 đến 30% thức ăn nuôi trồng thủy sản hiện đang được thay thế.

Sự gia tăng này chủ yếu là do bao gồm các loại cây trồng sử dụng nhiều tài nguyên và các thành phần có nguồn gốc bao gồm các chất cô đặc của bột đậu nành, hạt cải dầu và protein đậu, để đáp ứng các yêu cầu dinh dưỡng của tôm.

Ông Malcorps cho biết: Trong khi thức ăn nuôi trồng thủy sản tiêu thụ khoảng 4% cây lương thực toàn cầu và do đó chỉ cần một phần nhỏ nước và đất sẵn có, việc chuyển từ bột cá sang nguyên liệu thực vật không nên được coi là một giải pháp bền vững, đặc biệt là trong ngành tôm.

Malcorps tin rằng sự căng thẳng thêm vào các nguồn tài nguyên trên mặt đất do nuôi trồng thủy sản sẽ trở nên rõ ràng hơn trong vài thập kỷ tới, khi lĩnh vực này tiếp tục phát triển.

Các tài nguyên này đã chịu áp lực để đáp ứng nhu cầu toàn cầu về thực phẩm, thức ăn, nhiên liệu sinh học và vật liệu sinh học. Mối quan tâm là sự cạnh tranh gia tăng đối với đất đai có thể tạo ra xung đột xã hội và môi trường, và cũng ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của hệ thống lương thực toàn cầu.

Tài nguyên biển bị áp lực nghiêm trọng vì trong 50 năm tới năm 2016, mức tiêu thụ bình quân đầu người trên toàn cầu tăng hơn gấp đôi, tăng từ 9,96 kg lên 20,3 kg. Dự báo mức tăng tiêu thụ 0,3% mỗi năm cho đến năm 2030, do tầng lớp trung lưu đang phát triển, đặc biệt là ở châu Á, thúc đẩy nhu cầu về hải sản có giá trị cao.

Theo FAO, 59,9% các nguồn lợi thủy sản của toàn cầu đã được tăng cường năng lực bền vững trong năm 2016 và 33,1% đang bị đánh bắt ở mức không bền vững. Nuôi trồng thủy sản đã tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ lĩnh vực sản xuất thực phẩm nào khác, và năm 2016, tạo nên 80 triệu tấn (46,8% nguồn cung thủy sản toàn cầu) so với 90,9 triệu tấn thủy sản đánh bắt tự nhiên.

Malcorps và nhóm của ông hy vọng rằng mô hình của họ có thể được sử dụng để ngành thủy sản khởi động việc xem xét sâu về dữ liệu định lượng hậu quả của các mối liên kết trên đất liền do thay thế bột cá bằng các thành phần trên mặt đất. Ông nhấn mạnh rằng mô hình nghiên cứu, được xây dựng để nghiên cứu tôm, cũng có thể được áp dụng cho cá nước ngọt và cá biển nuôi.

Các nhà nghiên cứu cho rằng cần có sự đổi mới lớn hơn nhiều trong thức ăn cho tôm và cho rằng việc sử dụng các sản phẩm phụ và các thành phần mới như sinh khối vi sinh vật, bột côn trùng, nấm men, vi tảo và đại thực bào nên được khám phá thêm. Họ cũng kêu gọi việc sử dụng bột cá mang tính chiến lược hơn trong các công thức thủy sản, cải thiện tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và sử dụng nhiều hơn các hoạt động nuôi trồng thủy sản đa năng tích hợp, hệ thống biofloc và aquamimicry, đòi hỏi đầu vào thức ăn ít hơn.

Malcorps cho biết ông tin rằng hiểu được tác động thực sự của sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản sẽ là điểm khởi đầu cho việc định giá thực tế của thủy sản và sẽ tạo ra nhận thức về tác động của các lựa chọn hiện tại đối với các thế hệ tương lai. Một chiến lược như vậy có thể tạo ra các nguồn cấp dữ liệu bền vững góp phần vào các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc.

Ông cho biết: Thay đổi thực sự là cần thiết nếu chúng ta nghiêm túc trong việc ngăn chặn đói nghèo ở các nước đang phát triển và các nơi khác, và nếu mọi người tiếp tục ăn hải sản bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe.

HNN (Theo seafoodsource)

Ý kiến bạn đọc