Kết quả quan trắc môi trường tại một số vùng nuôi trồng thủy sản trọng điểm của tỉnh Kiên Giang ngày 22/11/2018 (30-11-2018)

Theo kế hoạch quan trắc môi trường trong năm 2018, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Kiên Giang sẽ tiến hành quan trắc tại 20 điểm đầu nguồn cấp nước cho các vùng nuôi tôm nước lợ trọng điểm của 09 huyện, thành phố trong tỉnh và 03 điểm tại vùng nuôi cá lồng bè tập trung của xã Hòn Nghệ, huyện Kiên Lương.
Kết quả quan trắc môi trường tại một số vùng nuôi trồng thủy sản trọng điểm của tỉnh Kiên Giang ngày 22/11/2018
Ảnh minh họa

Theo kết quả quan trắc môi trường đợt 23/25 ngày 22/11/2018, phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước tại một số vùng tại tỉnh Kiên Giang cho kết quả như sau:

Tại Vùng U Minh Thượng: Nhiệt độ: 24 - 29,0oC, pH: 6,9 - 8,4, độ trong: 10 - 40 cm, độ kiềm: 35,8 - 143,2 mg/l, oxy hòa tan (DO): 2,5 - 5,5 mg/l, ammonia: 0,003 - 0,08 mg/l, tiêu hao oxy sinh học (BOD5): 3,051 - 4,661 mg/l. Phần lớn các chỉ tiêu hóa, lý môi trường nước tại các điểm quan trắc đều nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép.

Độ mặn trên các kênh cấp nước của vùng vẫn không tăng so với đợt quan trắc trước, có 8/10 điểm có độ mặn thấp (từ 0 - 4‰), chỉ có điểm quan trắc ở Vàm Thứ 6 Biển (An Biên), Vàm Xẻo Nhàu (An Minh) có độ mặn đạt 8 - 11‰ thích hợp cho tôm nuôi phát triển. Độ kiềm tăng nhiều so với đợt quan trắc trước, chỉ còn 3/10 điểm có độ kiềm thấp (35,8 - 53,7 mg/l), có 5/10 điểm có độ trong thấp (10 - 15 cm),  không thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi nước lợ. Nitrite dao động từ 0 - 1,0 mg/l, vượt ngưỡng giới hạn cho phép đối với động vật thủy sản nuôi từ 2 - 20 lần tại 7/10 điểm quan trắc của vùng. Phosphate dao động từ 0,0 - 1,0 mg/l, vượt ngưỡng giới hạn cho phép từ 2,5 - 10 lần tại 8/10 điểm quan trắc, không thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi.

Đối với vùng Tây sông Hậu, kết quả quan trắc cho thấy, nhiệt độ: 25,2 - 25,5oC, độ trong: 24,0 - 27,0 cm, độ kiềm: 71,6 mg/l, nitrite: 0,01 - 0,025 mg/l, ammonia: 0 mg/l, tiêu hao oxy sinh học: 3,439 - 3,753 mg/l thích hợp cho sự phát triển của tôm nuôi.

Tuy nhiên, chỉ tiêu về độ mặn vẫn tiếp tục duy trì ở mức 0‰, pH vẫn tồn tại ở mức thấp (chỉ 6,7 - 6,8), oxy hòa tan thấp (2,5 - 3,0 mg/l) ở tại cả 03 điểm quan trắc của vùng; phosphate (0,015 - 0,2 mg/l) vượt ngưỡng giới hạn cho phép 2 lần tại 2/3 điểm quan trắc, không thích hợp cho hoạt động nuôi tôm nước lợ.

Vùng Tứ giác Long Xuyên, nhiệt độ: 27,5 - 29,0oC, pH: 7,0 - 8,0, độ trong: 20 - 45 cm, oxy hòa tan (DO): 3,0 - 5,0 mg/l, phosphate: 0 - 0,25 mg/l, tiêu hao oxy sinh học (BOD5): 3,507 - 4,872 mg/l. Phần lớn các chỉ tiêu lý hóa trên tại các điểm quan trắc nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép và thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của tôm nước lợ. Tuy nhiên, hàm lượng nitrite (tại 4/7 điểm quan trắc), phosphate (tại 2/7 điểm quan trắc) vượt ngưỡng giới hạn cho phép và không thích hợp cho đời sống của tôm nuôi nước lợ.

Chỉ tiêu về độ mặn tại khu vực này đo được nằm trong khoảng (0 - 17‰) tăng nhẹ so với đợt quan trắc trước tại các điểm quan trắc nằm ở ven biển, chỉ có điểm quan trắc tại đầm Đông Hồ (Hà Tiên) và cống Tam Bản (Kiên Lương) có độ mặn đạt 8 - 17‰. Độ kiềm (17,9 - 53,7 mg/l) vẫn tiếp tục tồn tại ở mức thấp trên tất cả các điểm quan trắc của vùng, dưới ngưỡng thích hợp cho sự phát triển của tôm nuôi.

Tại vùng nuôi cá lồng bè tập trung của xã Hòn Nghệ - Kiên Lương, nhiệt độ: 29oC, độ mặn: 18‰, không tăng so với đợt quan quan trắc trước, oxy hòa tan (DO): 8,0 mg/l, hàm lượng NH4+: 0 mg/l, hàm lượng nitrite: 0 mg/l, phosphate: 0 mg/l, phần lớn các chỉ tiêu quan trắc nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép và thích hợp cho cá nuôi lồng bè phát triển. Mật độ vi khuẩn Vibrio.sp tại các điểm quan trắc của vùng tăng nhẹ so với đợt quan trắc trước, dao động từ 310 - 1.660 cfu/ml, vượt ngưỡng giới hạn và không thích hợp cho cá nuôi lồng bè phát triển tại điểm quan trắc ở giữa vùng nuôi Bãi Nam (> 1.000 cfu/ml).

Theo kết quả trên, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Kiên Giang đã đưa ra khuyến cáo cho từng đối tượng nuôi giúp người nuôi trên địa bàn tỉnh nắm bắt kịp thời các tình hình diễn biến của thời tiết chủ động phòng chống các dịch bệnh xảy ra trong quá trình nuôi trông thủy sản.

Đối với nuôi tôm nước lợ, hiện nay thời tiết đang là giai đoạn chuyển mùa, gió Bấc thổi nhiều làm cho nhiệt độ không khí giảm, giao động trong khoảng 24 - 31oC, nhiệt độ nước giảm. Do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và bão nên thời tiết có mưa nhiều làm cho độ mặn của nước ở trên các kênh cấp giảm.

Để thuận lợi cho tôm nuôi nước mặn lợ phát triển, các hộ nuôi tôm cần lưu ý thực hiện các biện pháp quản lý ao nuôi để tránh tổn thất. Đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình nuôi, tình hình thời tiết thủy văn, quan trắc môi trường, quan trắc mầm bệnh, để có những biện pháp xử lý phù hợp, kịp thời. Tùy vùng nuôi, người nuôi cần thực hiện tốt một số khuyến cáo như: cần hạn chế lấy nước vào ao nuôi, môi trường thiếu khoáng, thiếu kiềm, tôm nuôi có thể chậm lớn, mềm vỏ, dễ nhiễm bệnh. Cần bổ sung thêm Kali và magiê để bảo đảm tôm tăng trưởng bình thường và tỉ lệ sống cao. Đối với các hộ nuôi tôm ở An Minh cần hạn chế lấy nước vào ao nuôi, nếu lấy cần phải xử lý diệt khuẩn nước thật kỹ trong ao chứa lắng trước khi cấp vào ao nuôi. Đối với ao có mật độ vi khuẩn Vibrio cao, định kỳ 15 ngày/lần tiến hành diệt khuẩn, bổ sung các chất bổ trợ gan cho tôm ăn, sử dụng men vi sinh để khôi phục hệ vi khuẩn có lợi trong ao. Hằng ngày kiểm tra các chỉ tiêu môi trường trong ao nuôi để kịp thời điều chỉnh nếu có sự bất lợi, kiểm tra sàng ăn (nhá) để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp tránh dư thừa. Thường xuyên theo dõi tình hình sức khỏe của tôm, kiểm tra các yếu tố môi trường để kịp thời điều chỉnh nếu cần và khi phát hiện tôm nuôi bị bệnh hoặc biểu hiện bất thường nên báo ngay cho cán bộ thú y địa phương, các hộ nuôi xung quanh, tuyệt đối không được xả nước, tôm của ao nuôi bị bệnh ra ngoài môi trường nếu chưa qua xử lý để tránh lây lan trên diện rộng. Độ kiềm, độ pH và nitrit ở những điểm quan trắc ngoài ngưỡng thích hợp phải được quan tâm xử lý tốt để có giá trị thích hợp là: Độ kiềm  từ 90 - 130 mg/l đối với tôm sú và 100 - 150 mg/l đối với tôm chân trắng; độ pH thích hợp cho tôm nuôi phát triển là 7,5 - 8,5 và biến thiên pH trong ngày không quá 0,5; hàm lượng nitrite phải <0,05 mg/l. Đối với các hộ nuôi tôm – lúa phải kết thúc vụ nuôi, ngắt vụ tôm để trồng lúa đảm bảo cơ cấu sản xuất, tính bền vững.

Đối với các hộ nuôi cá lồng bè, khu vực ven biển độ mặn, độ trong, hàm lượng oxy hòa tan giảm mạnh trong khi hàm lượng amonia, nitrite, phosphate và mật độ các loại vi khuẩn có khả năng tăng cao làm cá bị sốc, suy giảm sức đề kháng dẫn đến nguy cơ bùng phát dịch bệnh, thiệt hại do sốc môi trường rất cao. Do đó, để chủ động trong công tác phòng, chống dịch bênh trên cá nuôi lồng bè, Chi cục Chăn nuôi và Thú y hướng dẫn biện pháp như sau: Các địa phương có quy hoạch nuôi cá lồng bè ven biển, đảo cần thực hiện đúng quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt về vị trí đặt lồng, số lượng lồng, bảo vệ môi trường khu vực nuôi,…Hướng dẫn người nuôi phải giám sát chặt chẽ tình hình môi trường nước vùng nuôi, thường xuyên theo dõi sức khỏe của cá, phân công người trực canh bè 24/24 giờ để kịp thời phát hiện các hiện tượng bất thường của môi trường nước và đưa ra giải pháp ừng phó thích hợp nhằm hạn chế thiệt hại. Các hộ nuôi cá ở khu vực trung tâm Bãi Nam, xã Hòn Nghệ cần lưu ý phòng, trị những bệnh do vi khuẩn Vibrio spp gây ra do mật độ hiện diện cao. Hướng dẫn người nuôi tập trung thực hiện tốt quy trình phòng bệnh tổng hợp đã được cơ quan chuyên môn hướng dẫn, tập huấn. Chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, đã được kiểm dịch, kích cỡ đồng đều, cá khỏe mạnh, không bị sây sát. Thức ăn là cá mồi thì phải tươi, rửa cá bằng nước ngọt 2-3 lần trước khi cho cá ăn để loại bỏ các mầm bệnh. Nên sử dụng thức ăn viên dành cho cá để thuận tiện cho việc bổ sung vitamin, khoáng vi lượng để nâng cao sức đề kháng cho cá. Thường xuyên vệ sinh lưới lồng, vùng nuôi để loại bỏ các chất thải, sinh vật bám, tăng lưu lượng trao đổi nước và giảm mật độ vi khuẩn trong lồng. Trong trường hợp phát hiện cá nuôi bị bệnh, chết hay môi trường nước của vùng nuôi có hiện tượng bất thường nên báo ngay cho UBND xã, Trạm chăn nuôi và Thú y địa phương để được hướng dẫn các biện pháp ứng phó kịp thời nhằm hạn chế thấp nhất ảnh hưởng, thiệt hại.

Văn Thọ

Ý kiến bạn đọc

Tin khác