Bùng nổ cá rô phi nhưng lộ rõ nguy cơ thiếu giống và áp lực quản lý chất lượng (16-09-2025)

Năm 2024, giá trị xuất khẩu rô phi của Việt Nam tăng 138% lên 41 triệu USD; riêng quý I/2025 đạt gần 14 triệu USD với Mỹ chiếm 46% thị phần. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã xuất khẩu sản lượng bằng cả năm 2024. Song đằng sau đà tăng nóng là những tín hiệu gia tăng áp lực về nguồn giống: sản lượng cá bột/cá hương hiện mới khoảng 1,09 tỷ con/năm cho quy mô 30.000 ha, 300.000 tấn, trong khi nhiều địa phương ồ ạt mở rộng diện tích, giá cá nguyên liệu tăng gấp đôi khiến vòng quay tái thả giống dồn dập. Nhu cầu con giống chất lượng, kiểm soát đàn bố mẹ, chuẩn hóa trại ấp và truy xuất nguồn gốc trở thành “nhiệm vụ kép” của ngành nuôi trồng thủy sản.
Bùng nổ cá rô phi nhưng lộ rõ nguy cơ thiếu giống và áp lực quản lý chất lượng
Ảnh minh hoạ

Từ giữa 2024 đến nửa đầu 2025, thị trường rô phi thế giới biến động mạnh do đứt gãy nguồn cung từ Trung Quốc vào Mỹ bởi các rào cản thương mại và thuế suất cao. Các thông tin ghi nhận thuế nhập khẩu với rô phi Trung Quốc vào Mỹ năm 2025 ở mức rất cao, tạo “khoảng trống” cho nguồn cung thay thế như Việt Nam. Nhờ vậy, xuất khẩu rô phi của Việt Nam năm 2024 đạt 41 triệu USD (tăng 138%), riêng Mỹ gần 19 triệu USD; hai tháng đầu 2025, mua vào từ Mỹ tăng 105% so cùng kỳ, đạt gần 3 triệu USD (theo VASEP).

Thị trường thế giới vô cùng thuận lợi, sản lượng rô phi toàn cầu khoảng 7 triệu tấn năm 2024 và còn tăng thêm đến 2030, giá trị thị trường ước 10,6 tỷ USD năm 2024 và có thể chạm 14,5 tỷ USD vào cuối thập kỷ. Đón được “cơn sóng lớn” này, Việt Nam sản xuất khoảng 300.000 tấn/năm trên 30.000 ha, đang được các FTA và xu hướng đa dạng hóa sản phẩm “trắng thịt” hậu dịch chuyển chuỗi cung ứng hỗ trợ.

Đầu năm 2025 chứng kiến giá rô phi tại ao của nông hộ Việt Nam tăng gấp đôi (từ khoảng 0,60 USD/kg lên ~1,45 USD/kg), kéo theo tâm lý mở rộng diện tích/lứa nuôi, làm tăng tức thời cầu con giống ở nhiều vùng.

Truyền thông Trung Quốc cũng mô tả Việt Nam đang “gia tốc” chuỗi rô phi để tranh thủ phần thị phần mất đi của Trung Quốc tại Mỹ. Tổng hòa các yếu tố trên khiến rô phi Việt Nam bước vào pha “phình to nhanh”, đặt áp lực tức thì lên thị trường giống, từ cá bột, cá hương đến cá giống thương phẩm.

Dấu hiệu thiếu giống và những khoảng trống vùng nuôi

Bức tranh năng lực giống hiện tại: Theo số liệu ngành, năm 2024 Việt Nam có 30.000 ha rô phi, sản lượng khoảng 300.000 tấn; năng lực sản xuất cá bột/cá hương và cá giống rô phi - rô phi đỏ đạt xấp xỉ 1,09 tỷ con/năm. Con số này cho trạng thái tăng trưởng “bình thường”, nhưng khi giá tăng sốc và mở rộng diện tích, tốc độ cung cấp giống ra thị trường tăng nhanh hơn khung năng lực sản xuất con giống của các cơ sở ấp nhỏ lẻ.

Phụ thuộc liên vùng: Theo báo cáo chi cục thủy sản Trà Vinh cũ (nay là Vĩnh Long) cho thấy 46 hộ nuôi tới tổng diện tích 106 ha chủ yếu phục vụ xuất khẩu, nhưng trại ương địa phương vẫn phải lấy cá giống từ tỉnh khác; chính quyền địa phương và các hiệp hội đã đưa ra khuyến nghị “cần gấp rút” phát triển đàn bố mẹ và hạ tầng giống ngay tại địa bàn để hỗ trợ mở rộng. Đây là mô hình dễ thấy ở nhiều tỉnh ĐBSCL/Đông Nam Bộ: mở nuôi trước, giống theo sau, tạo ra những nhịp đứt gãy cục bộ.

Nhu cầu tăng, rủi ro “thắt cổ chai”: Với mục tiêu tăng sản lượng lên 350 - 400 nghìn tấn vào 2030 và xu hướng mở rộng nhanh trong 2025 - 2026, cầu giống sẽ vượt năng lực 1,09 tỷ con, đặc biệt nếu các cơ sở nuôi đồng thời tăng mật độ/lứa nuôi để chớp giá cao. Một số bản tin thị trường quốc tế/địa phương ghi nhận “đợt sốt” giá tại ao và kỳ vọng mở rộng đàn; khi các cơ sở nuôi quay vòng nhanh, nhu cầu cá giống cỡ thả (3 - 15 g) tăng vọt theo mùa, dễ dẫn tới thiếu hàng cục bộ, đặc biệt vào cao điểm thả giống đầu - giữa mùa mưa.

Với nhu cầu thế giới, OECD - FAO (The Organisation for Economic Co-operation and Development) dự báo thủy sản đến 2033 vẫn tăng, trong đó châu Á chiếm 77% tăng thêm về cung thực phẩm cá; điều này củng cố kỳ vọng cầu rô phi bền vững, càng kéo nhu cầu giống lên cao nếu Việt Nam tận dụng được khoảng trống thuận lợi về thương mại.

 “Nhiệm vụ kép” của ngành giống: nâng chuẩn chất lượng và siết quản lý đàn bố mẹ

Định hướng chính sách, Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng đã xác định 2025 có hai ưu tiên: nâng chất lượng con giống và siết quản lý kháng sinh. Với rô phi, “mũi nhọn” là kiểm soát chất lượng đàn bố mẹ, chuẩn hóa quy trình ấp - ương, truy xuất nguồn gốc giống thương phẩm, tiến tới mô hình cung ứng giống bài bản cho các chuỗi xuất khẩu.

Về yêu cầu kỹ thuật cốt lõi, tài liệu kỹ thuật FAO nhấn mạnh chất lượng đàn bố mẹ quyết định cả số lượng lẫn chất lượng con giống; quy trình ấp - ương, dinh dưỡng, quản trị bệnh và loại hình giống (đơn tính - đực, dòng GIFT hoặc các dòng chọn giống nhanh lớn) cần được chuẩn hóa và kiểm định thường xuyên. Các mô hình “bậc thang” ươm - nhân có thể bảo đảm chất lượng nếu cơ chế khuyến khích thay đàn bố mẹ đúng chu kỳ và luân chuyển vật liệu di truyền chuẩn.

Chuỗi giá trị đang định hình, ở tầng sản xuất, các phân tích nhấn mạnh vai trò xây dựng liên kết sớm giữa hiệp hội - địa phương - doanh nghiệp để “khóa” thị trường ngay từ đầu chuỗi. Điều này chỉ bền nếu nền tảng giống đáp ứng được quy mô và truy xuất, bởi người mua Mỹ - EU yêu cầu đồng bộ chất lượng.

Thực tế tại thực địa, ở Vĩnh Long dù diện tích đang tăng - vẫn lệ thuộc giống tỉnh ngoài, và chính địa phương đề nghị phát triển đàn bố mẹ chất lượng cao sở tại. Đây vừa là cảnh báo thiếu giống, vừa là yêu cầu cấp thiết về năng lực giống đạt chuẩn thương mại.

Các báo cáo tổng hợp đều mô tả xu hướng xuất khẩu bùng nổ, thị trường Mỹ thiếu hụt do thay đổi mạnh về thuế quan, song đồng thời nêu bài toán nền tảng: muốn đi xa phải có giống tốt, sạch bệnh, đồng nhất cỡ - điều chỉ có khi quy trình đàn bố mẹ và ấp - ương được kiểm soát.

Nguy cơ khi không tăng tốc đủ giống

Rủi ro thiếu giống theo mùa vụ: Khi giá tại ao cao, nông hộ tăng vòng nuôi, cầu giống dồn vào “cửa sổ” đầu - giữa mùa mưa. Với năng lực 1,09 tỷ con/năm, nếu diện tích tăng thêm 15 - 25% trong 2025 - 2026 (mức tăng dự đoán khi giá hấp dẫn), nhiều vùng có thể thiếu cỡ giống thả 3 - 10 g trong 1 - 2 chu kỳ cao điểm, đẩy giá giống tăng, người nuôi dễ dàng chấp nhận giống “trôi nổi”, tạo rủi ro dịch bệnh, FCR kém, kích cỡ không đồng đều.

Biến động thương mại thuế quan có thể là dao hai lưỡi. Rô phi Việt Nam đang hưởng lợi từ cuộc chiến thuế quan với Trung Quốc tại Mỹ, tạo cửa sổ vàng để thâm nhập chuỗi bán lẻ. Nhưng nếu chính sách thuế thay đổi đột ngột hoặc hàng rào kỹ thuật siết chặt, các đơn hàng có thể sụt nhanh; khi đó, những cơ sở nuỗi đã trót mở rộng sẽ đối mặt rủi ro dư cung nội địa, kéo theo vòng xoáy nợ đầu vào - đầu ra.

Chất lượng giống là then chốt để giữ thị trường. Các nhà nhập khẩu Mỹ - EU “đo” sự ổn định lô hàng bằng độ đồng đều size, tỷ lệ phi lê, màu thịt, dư lượng thuốc thú y và hồ sơ truy xuất nguồn gốc. Giống kém chất lượng khiến hệ số chuyển đổi thức ăn xấu, thời gian nuôi kéo dài, chi phí đội lên - cuối cùng bào mòn biên lợi nhuận và vi phạm hợp đồng. “Nhiệm vụ kép” 2025 của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (nâng chất lượng giống, siết kháng sinh) vì vậy mang ý nghĩa “hạ tầng mềm” để đỡ cả chuỗi giá trị.

Áp lực cạnh tranh khu vực: Thái Lan, Indonesia, Philippines… đều có các chương trình chọn giống/đàn bố mẹ bài bản cho rô phi, mô hình ươm - nhân chuẩn hóa và mạng lưới trại giống cấp vùng. Việt Nam muốn bền vững cần nhanh chóng thu hẹp khoảng cách ở “nền giống”, thay vì chỉ dựa vào khe cửa thương mại hẹp và ngắn hạn.

Cần khóa chặt chất lượng từ đầu nguồn

Chuẩn hóa đàn bố mẹ và công bố danh mục cơ sở giống đạt chuẩn: Sớm xây dựng/ban hành bộ tiêu chí đàn bố mẹ rô phi (nguồn gốc dòng, chu kỳ thay thế, kiểm dịch, chỉ tiêu di truyền - sinh trưởng), công bố danh sách trại bố mẹ và cơ sở ương dưỡng đạt chuẩn; yêu cầu cơ sở bán giống phải kèm hồ sơ truy xuất và giấy kiểm dịch lô hàng.

Thiết kế mạng lưới “ươm - nhân - phân phối” theo vùng sinh thái: Áp dụng mô hình bậc thang của FAO/WorldFish (breeding → multiplier → nursery) với cơ chế khuyến khích thay đàn đúng hạn, cập nhật “germplasm” (ví dụ GIFT) và giám sát định kỳ. Điều này giúp tăng nhanh sản lượng giống đạt chuẩn mà không đánh đổi chất lượng.

Chuẩn hóa thử nghiệm - chứng nhận giống: Thiết lập quy trình kiểm tra chất lượng giống trước bán (stress test độ mặn/DO, kiểm ký sinh trùng, đo đồng đều kích cỡ), thí điểm tem điện tử cho lô giống - liên kết dữ liệu với hệ thống nhật ký nuôi để truy xuất ngược khi kiểm định xuất khẩu.

Cần cân bằng tăng trưởng với phòng bệnh, các nghiên cứu khoa học mới về “thâm canh bền vững quy mô nhỏ” đều cảnh báo “nhiều hơn không phải lúc nào cũng tốt”; thâm canh quá mức, nhiều và nhanh có thể đẩy hệ thống vào trạng thái kém tối ưu hoặc sụp đổ. Do đó, hướng dẫn kỹ thuật phải đi kèm giới hạn mật độ, quản trị dinh dưỡng, quan trắc nước - dịch bệnh theo thời gian thực (IoT, cảnh báo sớm).

Đảm bảo liên kết xuất khẩu - nội địa, tránh phụ thuộc một thị trường; song song mở rộng ở Mỹ, cần phát triển các kênh Trung Đông, Nga, Nhật, EU…; Nhất là phía các thị trường nhập khẩu đang theo dõi và tìm nguồn thay thế rô phi Trung Quốc, cơ hội còn nhưng rủi ro chính sách cũng cao.

Trong bối cảnh “thiếu cung” toàn cầu và cơ hội thị trường mở ra, rô phi Việt Nam tăng tốc rất ấn tượng. Nhưng “đi nhanh” chỉ bền nếu “nền giống” theo kịp, đảm bảo chất lượng đàn bố mẹ, tăng cường năng lực sản xuất giống đạt chuẩn và theo vùng nuôi, kiểm soát truy xuất và dịch bệnh từ đầu nguồn, cân bằng mở rộng diện tích với sức chịu đựng hệ sinh thái. Nếu không, thiếu giống theo mùa vụ và lỗ hổng chất lượng sẽ kìm chân chuỗi xuất khẩu đúng lúc “cửa sổ vàng” đang mở.

Hải Đăng

Ý kiến bạn đọc

Tin khác