Cá rô phi của Việt Nam: Cơ hội và chiến lược phát triển bền vững (05-05-2025)

Trong bối cảnh thị trường thủy sản biến động, cá rô phi đang nổi lên như đối tượng nuôi chiến lược nhờ nhu cầu toàn cầu về nguồn protein giá rẻ, lành mạnh.
Cá rô phi của Việt Nam: Cơ hội và chiến lược phát triển bền vững
Ảnh minh hoạ

“Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2030” đã chỉ rõ: Đối với cá rô phi, Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển các vùng nuôi tập trung trong các ao đầm nước ngọt, lợ, mặn; nuôi lồng bè trên sông, hồ chứa. Áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, tạo ra khối lượng sản phẩm quy mô hàng hóa để chế biến xuất khẩu.

Phấn đấu đến năm 2030: Diện tích nuôi cá rô phi đạt 40.000 ha và 1.800.000 m3 lồng nuôi trên hệ thống sông và hồ chứa lớn; trong đó 40-45% diện tích nuôi theo hướng thâm canh và 20-25% diện tích nuôi trong ao đầm nước lợ theo hình thức nuôi đơn hoặc kết hợp với các đối tượng khác. 100% diện tích vùng nuôi cá rô phi tập trung được áp dụng quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt Việt Nam (VietGAP) hoặc các tiêu chuẩn tiên tiến khác của các nước nhập khẩu. Sản lượng cá rô phi đạt 400.000 tấn, trong đó 45-50% sản lượng cá rô phi phục vụ xuất khẩu. Sản xuất đáp ứng được 100% nhu cầu về số lượng và chất lượng con giống sạch bệnh phục vụ nuôi thương phẩm.

Thị trường cá rô phi toàn cầu dự kiến đạt 14,5 tỷ USD

Theo Báo Chính phủ, thị trường cá rô phi toàn cầu đang tăng trưởng mạnh, đạt 10,6 tỷ USD vào năm 2024 và dự kiến chạm mốc 14,5 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng hàng năm 3,52%. Sản lượng cá rô phi toàn cầu năm 2025 được dự báo đạt 7,3 triệu tấn, trong đó Việt Nam đóng góp khoảng 316.000 tấn vào năm 2024, với diện tích nuôi 42.000 ha. Các hiệp định thương mại như RCEP, giảm thuế vào Trung Quốc về 0% từ 2025, mở ra cơ hội lớn để thâm nhập thị trường châu Á. Tuy nhiên, để tận dụng cơ hội, Việt Nam cần khắc phục những thách thức nội tại như sản xuất manh mún, thiếu liên kết chuỗi, và chất lượng giống chưa đồng đều.

Cá rô phi đang bước vào giai đoạn thuận lợi, mở ra cơ hội lớn để phát triển chuỗi giá trị và tăng giá trị xuất khẩu thủy sản. Trong chiến lược phát triển thủy sản bền vững đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cá rô phi được xác định là một trong những đối tượng ưu tiên (bên cạnh các mặt hàng chủ lực như tôm và cá tra). Từ năm 2023 đến 2024, kim ngạch xuất khẩu cá rô phi đã tăng mạnh từ 17 triệu USD lên 41 triệu USD, và quý I/2025 tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 131%, đạt gần 14 triệu USD. Mỹ là thị trường lớn nhất, chiếm 46% tỷ trọng với hơn 6 triệu USD, tiếp theo là Nga (1,8 triệu USD) và Bỉ (700 nghìn USD).

Sự tăng trưởng này đến từ những chuẩn bị kỹ lưỡng về giống, thức ăn, và mô hình nuôi trong nhiều năm qua. Các hợp tác xã đã xây dựng chuỗi liên kết giá trị, không chỉ phục vụ xuất khẩu mà còn tạo ra các sản phẩm OCOP từ cá rô phi, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Với bối cảnh một số quốc gia cạnh tranh lớn gặp khó khăn do chính sách thuế quan, như Trung Quốc bị Mỹ áp thuế 150%, Việt Nam có cơ hội vàng để mở rộng thị trường, đặc biệt tại Mỹ, Trung Đông và Nhật Bản.

Trước đây, ngành Thủy sản quá tập trung vào tôm và cá tra, chưa chú trọng đến các đối tượng tiềm năng như cá rô phi. Việc chưa khai thác hiệu quả diện tích mặt nước tại các hồ chứa, hoặc chưa áp dụng mô hình luân canh giữa tôm và cá rô phi, đã hạn chế tiềm năng phát triển. Dịch bệnh, đặc biệt là virus TiLV, làm giảm 15% sản lượng và khiến một số thị trường như Brazil cấm nhập khẩu từ tháng 2/2024. Chất lượng giống cũng là vấn đề lớn, với hiện tượng lai cận huyết khiến tỷ lệ fillet chỉ đạt 33%, ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu.

Công nghệ chế biến hiện đại giúp cá rô phi vươn xa

Cá rô phi có thể coi là đối tượng nuôi chủ lực của Việt Nam, từ đó tập hợp nguồn lực từ các cơ sở nghiên cứu giống, vùng nuôi, đến các nhà máy chế biến. Một tín hiệu đáng mừng là nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến hiện đại, như dây chuyền fillet tự động, tạo ra các sản phẩm giá trị gia tăng như cá hun khói hay snack. Công nghệ chế biến hiện đại sẽ là đầu kéo để các cơ quan quản lý, địa phương và hệ thống khuyến nông cùng hợp tác, đào tạo, xây dựng vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Ngành Thủy sản đã đặt mục tiêu đến năm 2030 mở rộng diện tích nuôi lên 40.000 ha, sản lượng đạt 400.000 tấn, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng. Các giải pháp bao gồm đầu tư nghiên cứu giống chất lượng cao (như giống GIFT và giống kháng virus TiLV), mở rộng hệ thống nuôi hiện đại như RAS và bể bạt, hợp tác với doanh nghiệp thức ăn trong nước để giảm 15% chi phí sản xuất và đạt các chứng nhận quốc tế như ASC, BAP để đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của EU, Mỹ.

Bên cạnh việc phát triển sản xuất, ngành Thủy sản cũng coi trọng việc phục hồi môi trường nuôi, đảm bảo phát triển bền vững. Việc luân canh giữa tôm và cá rô phi không chỉ tạo sản phẩm chất lượng cao mà còn kiểm soát dịch bệnh, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn. Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ phối hợp với các địa phương để chuẩn hóa vùng nuôi, đặc biệt tại các khu vực hồ chứa thủy lợi, thủy điện và giao mặt nước cho người dân, hợp tác xã để đầu tư nuôi trồng.

Cùng với đó, việc xây dựng nông thôn mới ở các làng ven biển cũng là ưu tiên. Cần biến các khu vực này thành nơi đáng sống, với các vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn, gắn kết với nhà máy chế biến, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Các sản phẩm phụ từ cá rô phi, như vây, da, cũng có thể được chế biến thành sản phẩm giá trị gia tăng, góp phần khép kín chuỗi giá trị và giảm phụ thuộc vào các thị trường lớn.

Ngành Thủy sản Việt Nam được dự báo sẽ giữ đà tăng trưởng trong năm 2025, với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 10,5 tỷ USD, trong đó cá rô phi kỳ vọng đóng góp tích cực. Tổng sản lượng thủy sản dự kiến đạt 9,6 triệu tấn, với sự đóng góp từ các mặt hàng chủ lực như tôm (4 tỷ USD), cá tra (2 tỷ USD), và các sản phẩm khác. Sự tăng trưởng này được hỗ trợ bởi nhu cầu tiêu thụ toàn cầu tăng, các hiệp định thương mại tự do, và sự linh hoạt của doanh nghiệp trong việc đa dạng hóa sản phẩm, từ đông lạnh đến chế biến sâu.

Chuyển đổi sản xuất hiệu quả, bền vững

Nhiều địa phương đã chuyển đổi hiệu quả sang nuôi cá rô phi, góp phần nâng cao thu nhập và phát triển kinh tế bền vững. Ví dụ như: Ba Vì (Hà Nội) đã chuyển từ trồng lúa sang nuôi cá rô phi, đạt 8–10 tấn/ha/vụ, cá đạt trọng lượng 0,4–0,5 kg sau 6–8 tháng. Thu nhập cao gấp 15–20 lần trồng lúa, sản phẩm đạt chuẩn ASC, BAP, tiêu thụ tốt tại các thị trường EU, Mỹ. Ở An Giang, mô hình nuôi kết hợp cá rô phi và cá tra trong bể bạt giúp tăng năng suất, giảm dịch bệnh. Năm 2024, sản lượng cá rô phi đạt hàng chục nghìn tấn. Việc ứng dụng công nghệ tuần hoàn RAS giúp tăng tỷ lệ sống, giảm chi phí sản xuất.

Cá rô phi chính là đối tượng nuôi tiềm năng giúp Việt Nam đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu (giảm phụ thuộc vào tôm và cá tra), gia tăng giá trị bền vững. Theo kế hoạch Quý II/2025, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ triển khai các mô hình nuôi cải tiến, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn, tăng tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế. Hiện cả nước có 30.000 ha nuôi cá rô phi, sản lượng 300.000 tấn; mục tiêu đến 2030 đạt 40.000 ha, sản lượng 400.000 tấn. Với khí hậu thuận lợi, diện tích mặt nước lớn, công nghệ nuôi hiện đại và các FTA như RCEP, Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển ngành hàng này.

Tuy nhiên, ngành hàng cá rô phi vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức: giống kém chất lượng, dịch bệnh (như virus TiLV), giá thu mua bấp bênh, phụ thuộc nhập khẩu thức ăn thủy sản và áp lực cạnh tranh từ Brazil, Trung Quốc. Vì vậy, để có thể phát triển bền vững, cần đầu tư giống GIFT và giống kháng virus TiLV, mở rộng nuôi công nghệ cao, tự chủ thức ăn, nâng cấp chế biến và đạt chứng nhận quốc tế.

Tập trung cải thiện chất lượng giống

Thực hiện “Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Việt Nam sẽ phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững, trách nhiệm. Theo đó, phát triển nuôi trồng công nghệ cao các đối tượng chủ lực phục vụ xuất khẩu; phát triển giống và nuôi các đối tượng mới có tiềm năng cho nhu cầu trong nước và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu; xây dựng các mô hình nuôi thủy sản hữu cơ phù hợp cho các vùng sinh thái tạo sản phẩm chất lượng cao (nuôi luân canh với trồng lúa và nuôi tôm sinh thái trong rừng ngập mặn).

Cá rô phi được xác định là đối tượng nuôi tiềm năng; định hướng đưa cá rô phi trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, loài cá nước ngọt xuất khẩu lớn thứ hai (sau cá tra), góp phần đa dạng hóa sản phẩm, giảm phụ thuộc vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như tôm và cá tra. Trong thời gian tới, ngành Thủy sản sẽ mở rộng nuôi cá rô phi không chỉ trong ao mà còn tại các vùng hồ chứa. Chính phủ và các tổ chức cần hỗ trợ vốn, kỹ thuật cho cơ sở giống và hộ nuôi; khuyến khích áp dụng công nghệ tiên tiến như Biofloc nhằm tăng năng suất, giảm ô nhiễm và dịch bệnh. Đồng thời, cần quy hoạch vùng nuôi hợp lý, kiểm soát chất lượng và phòng dịch chặt chẽ.

Ngoài sản xuất, các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu và duy trì thị trường hiện có cũng là việc làm ưu tiên. Song song với đó, Việt Nam cần phát triển các tập đoàn giống mạnh, đầu tư chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và mở rộng phân phối đến các thị trường chiến lược. Chủ động đàm phán thương mại để thích ứng với biến động thuế quan toàn cầu, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của cá rô phi trên thị trường quốc tế.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác