Tôm Việt: Biến khó khăn xuất khẩu thành cơ hội tăng trưởng mới (09-09-2025)

Nhiều năm qua, mặt hàng Tôm luôn là đối tượng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Tuy nhiên, bức tranh này đang dần thay đổi. Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Giải pháp chiến lược của Việt Nam là đưa Tôm Việt phục vụ thị trường nội địa.
Tôm Việt: Biến khó khăn xuất khẩu thành cơ hội tăng trưởng mới
Ảnh minh hoạ

Thị trường tôm toàn cầu biến động mạnh

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, ngành tôm toàn cầu đang chịu áp lực lớn từ chính sách thuế mới của Mỹ. Trong khi đó, EU đang tích cực nhập khẩu tôm với 03 quốc gia dẫn đầu về tăng trưởng là Ecuador, Ấn Độ và Việt Nam.

Việc Mỹ chính thức áp thuế chống bán phá giá mới đối với tôm nhập khẩu, đang gây ảnh hưởng nặng nề đến các quốc gia xuất khẩu chủ lực như Indonesia, Việt Nam và Thái Lan với mức thuế 19–20%, Ấn Độ 50%. Riêng Ecuador chịu mức thấp hơn, khoảng 15%.

Phân khúc tôm chế biến – chiếm tỷ trọng lớn nhất – đang gánh mức thuế cao nhất. Trong 5 tháng đầu năm 2025, tôm lột vỏ chiếm tới 65% lượng nhập khẩu vào Mỹ. Tính đến cuối tháng 7/2025, giá tôm chế biến đã tăng hơn 12% cho thấy chi phí đang leo thang trên toàn chuỗi cung ứng. Dù một số nước như Ecuador đang nỗ lực mở rộng sản xuất để tận dụng cơ hội, nhưng việc dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi châu Á là điều khó khả thi trong ngắn hạn.

Tổng giá trị nhập khẩu tôm vào Mỹ năm 2024 ước đạt 6,06 tỷ USD, giảm so với 2023. Nếu áp toàn bộ mức thuế mới, ngành tôm sẽ phải gánh thêm 1,1 tỷ USD chi phí – tương đương với 18,4%. Các doanh nghiệp tại các nước bị áp thuế cao còn chịu thêm áp lực giảm giá từ người mua Mỹ, khiến sản xuất kém hiệu quả, nhiều người nuôi phải thu hẹp hoặc rút khỏi ngành. Nguy cơ vòng xoáy suy thoái toàn cầu đang hiện rõ, khi sản lượng giảm, giá tăng, nhưng nhu cầu tiếp tục sụt giảm.

Theo Bản tin Thị trường Nông lâm thủy sản, mặc dù được hưởng thuế suất ưu đãi từ Mỹ nhưng ngành tôm Ecuador đang phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ nặng. Từ ngày 7/8/2025, thuế nhập khẩu tôm Ecuador vào Mỹ đã tăng lên 15%, cao hơn mức 10% mà phần lớn các quốc gia phải chịu từ tháng 4/2025, chấm dứt thời kỳ được miễn thuế kéo dài nhiều năm. Tuy vậy, mức thuế này vẫn được xem là ít thiệt hại nhất khi so với mức 19% áp dụng cho In-đô-nê-xi-a, 20% cho Việt Nam và 50% đối với Ấn Độ.

Theo số liệu từ Phòng Thương mại Thủy sản Quốc gia Ecuador, trong nửa đầu năm 2025, Ecuador đã xuất khẩu 296 triệu pound (khoảng 134,26 nghìn tân) tôm sang Mỹ, trị giá 1,28 tỷ USD. Với mức thuế mới của Mỹ, ngành tôm Ecuador phải chi trả khoảng 45 triệu USD tiền thuế trong năm nay, và dự kiến sẽ tăng thêm 120 triệu USD nữa trong nửa cuối năm.

Ngoài mức thuế nhập khẩu 15%, Ecuador còn đang chịu thêm mức thuế chống trợ cấp 3,78% do Mỹ áp đặt sau cuộc điều tra về cáo buộc trợ giá. Tổng cộng, các loại thuế này khiến tôm Ecuador khi nhập vào Mỹ phải chịu mức thuế tổng cộng là 18,78%.

Phòng Thương mại Thủy sản Quốc gia Ecuador cảnh báo rằng gánh nặng chi phí gia tăng sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của Ecuador trên thị trường toàn cầu và đe dọa hơn 300.000 việc làm liên quan đến ngành tôm. Do đó, Phòng Thương mại Thủy sản Quốc gia Ecuador kêu gọi chính phủ Ecuador sớm đàm phán một thỏa thuận thương mại với Mỹ nhằm khôi phục điều kiện tiếp cận thị trường thuận lợi như trước đây.

Thị trường EU đang dần bão hòa

Tháng 5/2025, Liên minh châu Âu (EU) nhập khẩu tổng cộng 40.547 tấn tôm nước ấm đông lạnh và tôm chế biến, tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái – đạt mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Giá trị nhập khẩu đạt 246 triệu Euro, tăng 24%.

Tính từ đầu năm đến hết tháng 5/2025, EU đã nhập khẩu 164.701 tấn tôm, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái; giá trị tương ứng đạt 1,075 tỷ Euro, tăng 28%. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này diễn ra trong bối cảnh giá nhập khẩu có xu hướng giảm từ đầu năm, tiệm cận mức thấp của nửa đầu năm 2024.

EU tăng mạnh nhập khẩu tôm nhưng tăng trưởng nhập khẩu phân bổ không đều giữa các khu vực. Khu vực Nam Âu (gồm Tây Ban Nha, Pháp và Ý) chiếm gần hai phần ba tổng nhập khẩu trong tháng 5 với 25.843 tấn, tăng 31%. Tính từ đầu năm, khu vực này đạt 101.093 tấn, tăng 20%. Tây Bắc EU cũng ghi nhận mức tăng 27% trong tháng 5 với 13.731 tấn; lũy kế 5 tháng đạt 59.055 tấn (+20%). Trong khi đó, Đông Âu tiếp tục sụt giảm với chỉ 973 tấn trong tháng 5 (-28%), kéo lũy kế 5 tháng xuống còn 4.554 tấn (-12%).

Dẫn đầu nguồn cung là Ecuador với 24.188 tấn trong tháng 5 (+39%) và 88.625 tấn lũy kế 5 tháng, chiếm hơn một nửa tổng nhập khẩu của EU. Ấn Độ đứng vị trí thứ hai với 4.817 tấn trong tháng 5 (+25%) và 21.363 tấn trong 5 tháng. Việt Nam tăng mạnh 53% trong tháng 5 với 4.791 tấn, nâng tổng xuất khẩu 5 tháng lên 19.549 tấn (+23%). Trái lại, Venezuela giảm 9% trong tháng 5 và lũy kế giảm 41% còn 10.309 tấn. Bangladesh giảm 10% trong tháng 5 nhưng vẫn đạt tăng trưởng lũy kế +16% với 4.594 tấn.

Về cơ cấu mặt hàng, tôm đông lạnh nguyên liệu chiếm tỷ trọng lớn. Tôm đông lạnh thô (mã HS 03061792) tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất với 35.613 tấn trong tháng 5 (+29%) và 143.140 tấn từ đầu năm (+18%). Tôm giá trị gia tăng (mã HS 160521, 160529) đạt 4.934 tấn trong tháng 5 (+14%) và 21.561 tấn trong 5 tháng  đầu năm (+26%).

Theo dữ liệu thương mại mới công bố, 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch nhập khẩu tôm đông lạnh của EU (không bao gồm một số loại tôm nước lạnh) từ các nước ngoài EU đã tăng 22% lên tới hơn 2 tỷ USD, trong đó nguồn cung từ Ecuador tăng vọt 52%.

Châu Âu ghi nhận nhu cầu cao, với Pháp tăng trưởng 88%, đạt 33.687 tấn trong nửa đầu năm. Tây Ban Nha có mức tăng trưởng 42%, đạt 41.784 tấn. Trong khi đó, Trung Quốc - thị trường lớn nhất của Ecuador về khối lượng - duy trì nhu cầu ổn định với 358.277 tấn. Tuy nhiên, mức tăng trưởng chỉ đạt 8%, cho thấy Ecuador đang tìm kiếm cơ hội mới tại các thị trường. Hơn nữa, Trung Quốc lại mua với mức giá thấp nhất trong số các thị trường lớn, chỉ 4,66 USD/kg.

Ngoài ra, các thị trường nhỏ hơn như Nhật Bản và Việt Nam cũng có kết quả ấn tượng. Nhật Bản tăng trưởng 55%, đạt 9.685 tấn, trong khi Việt Nam tăng trưởng 123%, đạt 8.330 tấn trong nửa đầu năm 2025.

Nhìn chung, trong nửa đầu năm 2025, Ecuador chiếm lĩnh thị trường tôm EU, chiếm 40% khối lượng nhập khẩu khi quốc gia Nam Mỹ này thực hiện bước chuyển hướng mạnh mẽ sang các thị trường phương Tây. Ecuador đã cung cấp 115.674 tấn tôm, trị giá 705 triệu USD cho thị trường EU - mức tăng trưởng ấn tượng 35% về khối lượng, vượt xa tất cả các nhà cung cấp lớn khác. Hiện nay, Ecuador chiếm 40% tổng lượng tôm đông lạnh nhập khẩu của EU theo khối lượng và 34% theo giá trị.

Ấn Độ, nhà cung cấp tôm lớn thứ hai của EU, vẫn duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ với khối lượng xuất khẩu tăng 27% lên 42.803 tấn, trị giá 304 triệu USD - tăng 36%. Giá tôm Ấn Độ trung bình đạt 7,11 đô la Mỹ/kg, tăng 7% so với cùng kỳ năm ngoái.

Việt Nam và Maroc ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ, trong đó nguồn cung từ Việt Nam tăng 24% lên 25.016 tấn và lượng hàng xuất khẩu từ Maroc tăng 30% lên 9.913 tấn. Bangladesh và Greenland ghi nhận mức tăng trưởng về khối lượng lần lượt là 20% và 19%.

Trong khi đó, xuất khẩu tôm của Venezuela sang châu Âu giảm 47% xuống còn 11.260 tấn, trị giá 69 triệu đô la, sau khi chính phủ Venezuela tịch thu công ty xuất khẩu tôm lớn nhất nước này vào tháng 11/2024.

Có thể thấy, sự gia tăng của Ecuador tại châu Âu phản ánh chiến lược được tính toán trên toàn ngành nhằm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, nơi trước đây đã hấp thụ phần lớn sản lượng tôm của Ecuador. Sự chuyển hướng này đã mang lại kết quả tốt. Tuy nhiên, Ecuador và các nhà cung cấp khác có thể đang tận dụng tối đa tăng trưởng tại thị trường châu Âu.

Mặc dù nhập khẩu tôm của EU thường tăng tốc vào nửa cuối năm nhưng các chỉ số ban đầu cho thấy thị trường này đang dần bão hòa. Các kho lạnh ở châu Âu có thể đang đầy lên sau đợt mua sắm mạnh mẽ trong nửa đầu năm 2025.

Người Việt ưu tiên dùng tôm Việt

Theo VASEP, đứng trước bối cảnh thuế cao ở Mỹ, cuộc cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ xuất khẩu tôm (Ấn Độ và Ecuador) cùng áp lực chi phí sản xuất trong nước gia tăng, việc đưa con tôm quay về thị trường nội địa không chỉ là giải pháp tình thế mà có thể trở thành một chiến lược lâu dài, tạo thêm một trụ cột song hành với xuất khẩu.

Với hơn 100 triệu dân và mức tiêu thụ thủy sản bình quân 35–38 kg/người/năm, Việt Nam là một trong những quốc gia tiêu thụ thủy sản lớn trong khu vực. Tầng lớp trung lưu ngày càng mở rộng, nhu cầu thực phẩm chất lượng, an toàn và có truy xuất nguồn gốc ngày càng rõ rệt. Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm có thương hiệu, có câu chuyện gắn với vùng nuôi và quy trình chuẩn quốc tế.

Cùng với đó, thói quen tiêu dùng hiện đại đang hình thành mạnh mẽ. Thay vì chỉ mua tôm tươi ngoài chợ, người Việt chuyển sang lựa chọn sản phẩm chế biến sẵn, đóng gói tiện lợi, hoặc mua qua siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch và sàn thương mại điện tử. Năm 2023, thực phẩm tươi sống trên Shopee tăng 38% đơn hàng, trong đó thủy sản là nhóm tăng trưởng mạnh nhất. TikTok Shop cũng ghi nhận nhóm thực phẩm chế biến, đặc sản đứng thứ hai về livestream sau thời trang. Những tín hiệu này khẳng định: nội địa thực sự là mỏ vàng bị lãng quên của ngành tôm Việt.

Để chinh phục người tiêu dùng trong nước, yếu tố sống còn là nghiên cứu thị trường. Doanh nghiệp cần trả lời được các câu hỏi căn bản: Ai là khách hàng mục tiêu? Họ cần gì? Vì sao họ mua hoặc từ chối mua? Và họ thường mua ở đâu? Những dữ liệu này là nền tảng để xây dựng chân dung khách hàng, từ đó định vị sản phẩm và thiết kế chiến lược marketing phù hợp.

Người tiêu dùng Việt thường mong muốn an toàn, tiện lợi, chất lượng ổn định và giá hợp lý. Nhưng họ cũng đối diện với rào cản: thói quen chuộng hàng rẻ, thiếu niềm tin vào sản phẩm nội địa, và sự thiếu đồng bộ trong hệ thống phân phối. Vì vậy, minh bạch quy trình nuôi trồng, áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, cùng với truyền thông về câu chuyện thương hiệu là chìa khóa để chinh phục khách hàng trong nước.

Một số doanh nghiệp thủy sản đã nhìn thấy “mỏ vàng nội địa” từ sớm và gặt hái thành công. Công ty Saigon Food đã nghiên cứu thói quen tiêu dùng, phát triển sản phẩm phù hợp từng nhóm khách hàng (gia đình trẻ, dân công sở, người bận rộn). Trong đó chú trọng vào marketing: sản phẩm (đa dạng, tiện lợi), giá cả hợp lý, phân phối rộng khắp, truyền thông bằng câu chuyện thương hiệu. Công ty Lenger Việt Nam từ chỗ chỉ tập trung xuất khẩu nghêu, Lenger đã phát triển dòng sản phẩm nội địa như nghêu sạch, nghêu sốt bơ tỏi, nghêu thịt đóng hộp. Doanh thu nội địa chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Bài học từ Ấn Độ – cường quốc tôm hàng đầu thế giới – vốn phụ thuộc hơn 90% sản lượng vào xuất khẩu, trong đó Mỹ và Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt từ Ecuador đã khiến ngành này phải thay đổi. Chiến lược mới của Ấn Độ là mở rộng tiêu thụ nội địa và phát triển tôm sú để tăng giá trị. Với dân số hơn 1,4 tỷ người và thu nhập ngày càng tăng, thị trường nội địa được quốc gia này coi là “giếng dầu tiềm năng” cho sự phát triển bền vững. Nếu một cường quốc tôm như Ấn Độ còn coi thị trường nội địa là trụ cột chiến lược, thì Việt Nam – với mức tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người cao – càng có lý do để hành động quyết liệt hơn.

Về truyền thông, cần đẩy mạnh “storytelling” để kể câu chuyện vùng nuôi, chất lượng chuẩn quốc tế (ASC, BAP) và cam kết truy xuất nguồn gốc minh bạch. Ngoài ra, cũng cần khuyến khích tiêu dùng nội địa, đầu tư hạ tầng logistics lạnh; đặc biệt là các chương trình vận động “Người Việt ưu tiên dùng tôm Việt”.

Trong bối cảnh thị trường tôm toàn cầu biến động mạnh, việc đưa Tôm Việt phục vụ thị trường nội địa không chỉ là giải pháp tình thế, mà chính là một trong những chiến lược phát triển bền vững của ngành Thủy sản Việt Nam.  

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác